Page 213 - Giáo trình môn học vi sinh vật học
P. 213
- Kháng huyết thanh: dùng phản ứng ngưng kết trên phiến kính hoặc phản ứng
phình vỏ với kháng huyết thanh mẫu (từ a đến f). Đương nhiên, những chủng không có
vỏ thì không dùng được phương pháp này.
- Định týp sinh học. Týp sinh học có giá trị về dịch tễ học; trong viêm màng não,
hơn 90% số chủng thuộc về týp I. Kỹ thuật này có thể áp dụng cho tất cả các chủng có vỏ
hoặc không có vỏ.
4. Nguyên tắc phòng bệnh
- Phòng không đặc hiệu:
Viêm màng não do H. influenzae týp b là một bệnh lây theo đường hô hấp. Bệnh nhân
phải được cách ly. Người lành tiếp xúc với người bệnh phải uống kháng sinh dự phòng.
- Phòng đặc hiệu:
Vacxin thế hệ thứ nhất: được tinh chế từ vỏ polysaccharid của H. influenzae týp b.
Đáp ứng miễn dịch đối với vacxin này thì tốt ở nhóm trẻ trên hai tuổi nhưng rất kém ở
nhóm dưới hai tuổi, nhóm mà nguy cơ mắc bệnh cao nhất.
Vacxin thế hệ thứ hai: nhược điểm của vacxin thế hệ thứ nhất là tính sinh miễn
dịch kém; vì vậy, hiện nay người ta đã gắn kháng nguyên này vào một protein mang
(carrier protein) tạo nên một hỗn hợp, trong đó protein mang hoạt động như một tá chất.
Vì vậy, tính sinh miễn dịch của polysaccharid được tăng cường và vacxin này đã được
chứng minh là gây đáp ứng miễn dịch tốt hơn vacxin thế hệ thứ nhất trên trẻ nhỏ.
5. Nguyên tắc điều trị
Năm 1968, lần đầu tiên, một trường hợp viêm màng não mủ do H. influenzae điều trị
bằng ampicillin bị thất bại. Năm 1974, những chủng kháng ampicillin do sinh ra enzym -
lactamase đã thật sự được chứng minh.
H. influenzae kháng chloramphenicol nhờ enzym chloramphenicol acetyl-
transferase (CAT). enzym này xúc tác quá trình chuyển hai nhóm acetyl từ coenzym A
tới những vị trí hoạt động của phân tử chloramphenicol; nhờ vậy, tính chất ức chế tổng
hợp protein của chloramphenicol bị mất đi.
Vì các lý do nêu trên, điều trị các nhiễm trùng do H. influenzae gây ra phải dựa
vào kháng sinh đồ. Trong khi chưa có kết quả kháng sinh đồ hoặc khi không phân lập
213