Page 82 - Giáo trình môn học Ký sinh trùng
P. 82
- Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp là dùng kháng nguyên thô (antigenes
homologues). Kỹ thuật này còn cho phép đánh giá mức độ trầm trọng của bệnh
và thường sử dụng để đánh giá hiệu quả của các đợt điều trị. Tuy nhiên kỹ thuật
này có độ tin cậy không cao bằng phương pháp trực tiếp, vì có phản ứng chéo
giữa giun chỉ và các bệnh ký sinh trùng khác.
- Miễn dịch hấp phụ gắn men (ELISA), sử dụng kháng nguyên cắt đoạn,
kháng thể đơn dòng nên tương đối đặc hiệu. Ngoài ra có thể dùng test chẩn đoán
nhanh.
- Có thể chụp bạch mạch, sinh thiết hạch bạch huyết tìm giun chỉ trưởng
thành...
3.7. Điều trị
3.7.1. Điều trị giun chỉ
Đối với thuốc diệt ấu trùng giun chỉ, hiện nay thuốc được sử dụng rộng rãi
là DEC (dietyl carbamazin), thuốc ít độc, an toàn, có hiệu quả và chưa có báo
cáo kháng thuốc DEC. Do vậy DEC thường được sử dụng để điều trị hàng loạt,
điều trị chọn lọc bệnh giun chỉ ở các vùng lưu hành. Tuy nhiên DEC thường xảy
ra các phản ứng phụ là sốt, mệt mỏi, nhức đầu, buồn nôn. Phản ứng phụ xuất
hiện sớm và nặng đối với loài giun chỉ B. malayi, nhất là bệnh nhân có mật độ
ấu trùng nhiều.
Liều dùng 6 mg/kg thể trọng/ngày, chia làm ba lần và uống sau bữa ăn.
Một đợt điều trị 12 ngày, tổng liều một đợt điều trị là 72 mg/kg thể trọng.
Ngoài ra còn có thể dùng uống nước sắc của cây lá dừa cạn cho kết quả tốt
trong các trường hợp bệnh nhân đái ra dưỡng chấp.
Các thuốc diệt giun trưởng thành hiện nay không được dùng vì độc cho
bệnh nhân.
3.7.2. Điều trị triệu chứng và biến chứng
Dùng thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau, kháng viêm, kháng histamin.
Đối với phù voi mạn tính, không thể tiến hành điều trị nội khoa được, có
thể điều trị bằng ngoại khoa. Trong trường hợp phù voi ở chi, việc điều trị rất ít
kết quả. Điều trị ngoại khoa cho phù voi ở bìu có kết quả rất tốt.
79