Page 37 - Tâm lý trị liệu
P. 37
căng thẳng hay đau đớn hướng người bệnh đi tới một giải pháp có hiệu quả.
Đây là loại liệu pháp tâm lý chiếm nhiều thời gian nhất, ít nhất cũng vài năm
(mỗi tuần từ 3–5 buổi), kỹ thuật này cũng đòi hỏi bệnh nhân nói năng lưu loát,
có động cơ rõ rệt, nhằm duy trì trị liệu và sẵn sàng chịu phí tổn.
2. Một số kỹ thuật cơ bản trong trị liệu phân tâm
Nhà phân tâm học sử dụng một số kỹ thuật chuyển xung đột bị dồn nén
từ vô thức sang ý thức và giúp bệnh nhân giải quyết xung đột đó. Một số kỹ
thuật cơ bản nhà phân tâm học thường sử dụng là: liên tưởng tự do, phân
tích sư chống đối, phân tích giấc mơ, phân tích chuyển dịch và chuyển dịch
ngược.
a. Liên tưởng tự do (Free association)
Kỹ thuật cơ bản đầu tiên thường sử dụng trong phân tâm nhằm khám
phá vô thức và giải phóng điều bị dồn nén được gọi là liên tưởng tự do. Bệnh
nhân ngồi (hoặc nằm) trong tư thể thoải mái. toàn thân thư giãn để ý nghĩ của
mình xuất hiện tự do và họ kể lại những suy nghĩ vừa diễn ra, kể lại những
mong muốn và những cảm giác về thể chất, hoặc hình ảnh tâm trí khi những
điều đó hiện về. Bệnh nhân được khuyến khích thổ lộ mọi ý nghĩ hoặc cảm
giác không e ngại động chạm đến những chuyện riêng tư, dù đó là chuyện
đau khổ hay có vẻ không quan trọng. Ví dụ, bệnh nhân có thể nói: “Điều này
rất tốt để tôi thư giãn… tôi hy vọng mình không rơi vào giấc ngủ… tôi cảm
thấy cô đơn… có cái gì giống như nỗi đau bên trong…). Một nhận xét này có
thể dẫn tới một nhận xét khác hoặc ý nghĩ của bệnh nhân có vẻ lởn vởn, lộn
xộn, nhưng những liên tưởng tự do này là toàn bộ đầu mối quan trọng cho
công việc của nhà trị liệu.
S. Freud khẳng định liên tưởng tự do là hiện tượng “tiền định’’ không
phải ngẫu nhiên. Công việc của nhà phân tâm là kiên trì lắng nghe tất cả
những điều bệnh nhân bộc lộ rồi lần theo những liên tưởng này tìm đến cội
nguồn của chúng. Nhà trị liệu phải nhạy cảm để có thể nhận diện ra những
uẩn khúc tâm lý đáng kể được che dấu dưới các cảm xúc hay lời nói, cử chỉ.