Page 119 - Bào chế
P. 119

(g/ml)

                        Ghi chú: Độ tan được tính bằng số phần thể tích khí ở áp suất khí quyển tan
                  trong một phần thể tích nước.

                        Các khí nén còn có ưu điểm là trơ về mặt hoá học, không phản ứng tương tác với
                  chất thuốc trong hệ. Khí nitơ và CO2 còn có vai trò đẩy loại không khí trong hệ bình
                  thuốc phun mù, trong một số trường hợp các khí trơ này góp phần tăng độ ổn định của
                  thuốc.

                  2.2. Bình chứa
                        Bình chứa thuốc phun mù được làm bằng các vật liệu có khả năng chịu áp suất
                                            0
                  cao (12,5 - 13,5 atm ở 55 C).
                        Bình chứa thường được làm bằng kim loại hoặc thuỷ tinh, ít khi làm bằng chất
                  dẻo. Bình có miệng để lắp gắn van. Kim loại làm bình có thể là nhôm, thép không gỉ
                  hoặc thép mạ thiếc hai bề mặt bằng phương pháp điện hoá. Bề mặt thép có thể được
                  phủ màng mỏng vecni hoặc chất dẻo. Thép không gỉ có độ chịu áp suất cao nhưng giá
                  thành đắt, thương dùng cho loại thuốc phun mù dùng để xông hít có dung tích nhỏ
                  không cần phải bịt kín bề mặt. Bình nhôm có độ dày từ 0,25 - 0,4 mm. Các bình thép
                  thường đợc làm đáy và vai bình đúc liền khối, có ưu điểm chịu được áp suất do không
                  có mối hàn. Nói chung các bình kim loại chịu áp suất tốt nhưng có thể bị ăn mòn khi
                  có mặt của nước, ethanol. Điển hình về tác hại này là trường hợp khi có mặt chất đẩy
                  21 và ethanol, bình nhôm sẽ tạo ra khí hydrogen, acetyl clorid, nhôm clorid và một số
                  sản phẩm phân huỷ khác.
                        Bình chứa bằng thuỷ tinh trơ về hoá học, không bị ăn mòn hoá học hoặc điện
                  hoá như bình kim loại nhưng dễ vỡ và phải làm dày, nặng hơn. Bình thuỷ tinh luôn
                  được tránh bọc một lớp chất dẻo bảo vệ tránh vỡ, khi vỡ không văng bắn mảnh thuỷ
                  tinh, tránh gấy nguy hiểm.
                  2.3. Van
                        Các van làm nhiệm vụ bịt kín bình chứa và phân phối thuốc, phun ra khỏi bình
                  tới nơi điều trị nhờ áp suất cao trong bình.
                        Van dùng cho thuốc phun mù đòi hỏi phải có yêu cầu chất lượng cao. Kim loại
                  và chất dẻo làm van phải đáp ứng các yêu cầu dược dụng qui định, không gây tương
                  kỵ với chế phẩm thuốc. Van được lựa chọn tuỷ thuộc vào các yếu tố: Khí đẩy, chế
                  phẩm thuốc và cách sử dụng.
                        Có nhiều kiểu van, dựa trên đặc điểm tính năng phun đẩy thuốc của van có thể
                  phân biệt hai loại van: Van phun liên tục và van định liều.
                  2.3.1. Van phun liên tục
                        Van phun liên tục là loại van khi bấm nút mở van thuốc được phun ra liên tục,
                  chỉ ngừng khi bỏ tay, nút bấm trở về vị trí ban đầu đóng van lại. Cấu tạo của van được
                  mô tả trên hình 8.1.
                        Van bao gồm các bộ phận sau đây:
                        - Nắp van (hoặc vành chắn): Nắp  van gắn  vào  miệng  bình, thường làm bằng
                  nhôm hoặc sắt mạ thiếc. Do mặt dưới của nắp tiếp xúc với thuốc và không khí nên cần
                  được phủ màng chất dẻo epoxy hoặc vinyl để tăng khả năng chống ăn mòn han gỉ. Các
                  nắp van dùng cho bình thuỷ tinh hoặc ống nhôm nhỏ thường được làm từ kim loại
                  mềm như nhôm hoặc đồng thau. Lắp van được lắp vào bình bằng cách xoay vào khớp
                  mép lồi ở cổ bình hoặc tán dập khoá vào mép cổ bình.


                                                                                                        116
   114   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124