Page 45 - Giao trinh- Chăm sóc sau đẻ
P. 45

Tuy nhiên cần phân biệt những ban này với những mụn nước hoặc có mủ trên
                  da của trẻ, đặc biệt ở các nếp gấp như cổ, bẹn, nách…Khi xuất hiện những nốt này
                  chứng tỏ trẻ đang bị viêm da cần có chăm sóc đặc biệt.

                  3.5. Phòng, chống nhiễm khuẩn cho trẻ sơ sinh
                  3.6.1. Chống nhiễm khuẩn

                         Nhiễm khuẩn sơ sinh xảy ra với tỷ lệ 0,5 – 0,8/1000 trẻ và đó hầu hết đều là
                  nhiễm trùng cơ hội, thường nguyên nhân là do vi khuẩn, xảy ra vào giai đoạn chu sinh.
                         Các dấu hiệu nhiễm khuẩn rất phức tạp, bao gồm cả giảm các vận động tự ý, bú
                  kém, ngừng thở, tim đập chậm, thân nhiệt thay đổi, thở khó, nôn, tiêu chảy, chướng
                  bụng, kích động, co giật và vàng da.

                         Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và kết quả nuôi cấy vi khuẩn.
                         Nhiễm khuẩn sơ sinh có thể khởi phát sớm (trong vòng 1 tuần sau sinh) hoặc
                  muộn (sau sinh 1 tuần).

                         Các trường hợp phát bệnh sớm thường do cơ thể bị nhiễm bệnh trong quá trình
                  sinh đẻ. Hầu hết các trẻ sơ sinh đều có triệu chứng trong vòng 6 giờ sau sinh, và hầu
                  hết các trường hợp bệnh xảy ra trong vòng 72h.

                         Liên cầu nhóm B và các vi khuẩn gram (-) (thường là E. coli) là nguyên nhân
                  phần lớn trong các trường hợp nhiễm khuẩn sớm.

                         Nuôi cấy vi khuẩn với bệnh phẩm ở âm đạo và trực tràng của người mẹ có thể
                  thấy liên cầu nhóm B xuất hiện với tỷ lệ 30%. Ít nhất 35% trong số họ truyền vi khuẩn
                  này cho con.

                         Tỷ lệ con bị nhiễm khuẩn phụ thuộc vào nguy cơ nhiễm trùng cơ hội ở giai
                  đoạn sớm.
                         Mặc dù chỉ 1/100 số trẻ này bị nhiễm trùng cơ hội do Liên cầu khuẩn nhóm B,
                  có tới trên 50% các trường hợp xuất hiện trong vòng 6h đầu sau đẻ.

                         Điều trị thường khởi đầu với ampicillin kết hợp gentamicin hoặc cefotaxim, sau
                  đó điều trị đặc hiệu càng sớm càng tốt.
                  3.6.2. Dự phòng nhiễm khuẩn

                         Phát  hiện  sớm  viêm  nhiễm  ở  bà  mẹ,  điều  trị.  Thường  cấy  dịch  tìm  liên  cầu
                  khuẩn nhóm B ở thai tuần 35 – 37. Nếu dương tính, cho dùng kháng sinh nhóm beta
                  lactam trong khi sinh dự phòng lây cho trẻ.
                         Theo dõi sát trẻ sơ sinh, phát hiện sớm, điều trị kịp thời

                  3.7. Phòng chống bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh

                         Những trẻ mới sinh thường đứng trước nguy cơ của thiếu vitamin K,. Đây là
                  một vitamin tan trong dầu nên việc hấp thu vitamin K và sự vận chuyển chúng qua  rau
                  thai cho trẻ từ mẹ trong thời kỳ có thai là hết sức hạn chế. Khả năng dự trữ lượng
                  vitamin K trong  gan của trẻ thời kỳ này  là  rất ít. Sữa  mẹ lại là nguồn dinh dưỡng
                  nghèo vitamin K (chỉ có khoảng 1-4 ug/l). Điều này làm cho trẻ sơ sinh dễ mắc các
                  bệnh liên quan đến xuất huyết và chảy máu tức thì nếu không được cung cấp vitamin
                  K ngay sau đẻ.
                                                                                                           44
   40   41   42   43   44   45   46   47   48