Page 140 - Giáo trình môn học Dược lâm sàng
P. 140
2.3.4.2. Một số phác đồ điều trị đích, miễn dịch
- Bevacizumab: Liều dùng thông thường: 5-15 mg/kg, truyền tĩnh mạch từng đợt,
phối hợp với các phác đồ hóa chất 14-21 ngày/lần.
- Cetuximab: Liều dùng: 400 mg/m2 ngày 1 sau đó 250 mg/m2 hàng tuần, truyền
tĩnh mạch phối hợp với các phác đồ hóa chất.
- Panitumumab: Liều dùng: 6 mg/kg, truyền tĩnh mạch trong 60-90 phút, mỗi hai
tuần hoặc 2,5mg/kg, truyền tĩnh mạch hàng tuần, phối hợp với các phác đồ hóa chất.
- Regorafenib: Liều dùng: Regorafenib 40 mg x 4 viên /ngày, uống một lần/ngày,
uống từ ngày 1-21, chu kỳ 28 ngày, có thể điều chỉnh liều tùy thuộc bệnh nhân.
2.4. Sử dụng thuốc điều trị bệnh ung thư vú
Ung thư vú là bệnh lý ác tính tại tuyến vú, đây là bệnh ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất
ở nữ giới Việt Nam và thế giới. Những đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh: tiền sử gia đình
có mẹ, con gái, chị/em gái bị ung thư vú, có đột biến gen BRCA1 và BRCA2; tuổi cao:
phụ nữ ≥ 40 tuổi; phụ nữ có hành kinh sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 55 tuổi);
phụ nữ mang thai muộn (> 30 tuổi), không mang thai, không cho con bú; phụ nữ béo phì,
hút thuốc lá; phụ nữ có tiền sử chiếu xạ vào vùng ngực; phụ nữ có tiền sử bị ung thư trước
đó: phụ nữ đã bị ung thư một bên vú, ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử cung, ung
thư đại tràng.
2.4.1. Tính chất của bệnh ung thư
Bệnh ung thư vú ở giai đoạn sớm thường phát hiện tình cờ qua thăm khám sức khỏe
định kỳ hoặc tự sờ thấy tổn thương nhỏ tại vú, ở giai đoạn này, có thể điều trị khỏi hoàn
toàn. Ở giai đoạn tiếp theo, người bệnh thường có biểu hiện tự sờ thấy u vú, hoặc đau tại
vú, chảy dịch đầu vú; ở giai đoạn muộn hơn, người bệnh có biểu hiện khối u tại vú to dần
và/hoặc kèm theo biểu hiện tại các tổn thương di căn: đau tức hạ sườn phải, vàng da (di
căn gan), ho, đau ngực (di căn phổi), đau xương (di căn xương), đau đầu, nôn, yếu liệt (di
căn não), gầy sút cân, suy kiệt, loét tại vú.
2.4.2. Điều trị ung thư vú
Điều trị ung thư vú là sự phối hợp của nhiều phương pháp điều trị ung thư (điều trị
đa mô thức) bao gồm: phẫu thuật, xạ trị, hoá trị, nội tiết, đích, miễn dịch.
Ở giai đoạn muộn: điều trị toàn thân (hóa trị, nội tiết, đích, miễn dịch) giữ vai trò
chủ đạo, trong đó hóa trị là biện pháp cơ bản nhất để điều trị ở giai đoạn này, ngoài hóa trị
chuẩn thì việc sử dụng hóa trị metronomic (sử dụng thuốc liều thấp thường xuyên trong