Page 63 - Giáo trình môn học Ký sinh trùng
P. 63
1.2.3. Tính chất ký sinh của giun lươn
Giun lươn ký sinh ở người nhưng có thể ký sinh ở một số động vật khác
như chó, khỉ, vượn. Tuổi thọ của giun lươn có thể rất ngắn, nhưng do người
bệnh có thể tự tái nhiễm nên bệnh thường kéo dài.
1.3. Dịch tễ học
Tuy có phân bố rộng khắp, đặc biệt ở vùng nhiệt đới, nhưng giun lươn cũng
như giun móc/mỏ là đòi hỏi phải có những điều kiện về địa lý, khí hậu nhất định
cho giai đoạn phát triển ấu trùng ở ngoại cảnh. Vì vậy, mức độ nhiễm bệnh
nặng, nhẹ tuỳ thuộc vào vùng địa lý, khí hậu khác nhau. Bệnh thường phân bố ở
các nước có khí hậu nóng, ẩm. Tuy nhiên, giun lươn không yêu cầu nhiệt độ ở
ngoại cảnh cao như giun móc/mỏ nên một số vùng khí hậu ôn hoà hoặc lạnh vẫn
có bệnh giun lươn như ở Mascơva, nơi khí hậu lạnh, cũng có bệnh giun lươn. Ở
châu Âu, bệnh giun lươn gặp ở Ý, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan.
Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra tại cộng đồng miễn dịch ELISA cho thấy
tỷ lệ nhiễm giun lươn tại Thái Nguyên là 10.9% (Vũ Thị Lâm Bình, 2014), tại
Bình Định là 10.4% (Hoàng Tôn Kiều Oanh, 2016). Giun lươn được phát hiện
hàng trăm bệnh nhân mỗi ngày tại các cơ sở y tế trong cả nước, gây nên nhiều
bệnh cảnh phức tạp, khó chẩn đoán.
1.4. Tác hại
1.4.1. Giai đoạn ấu trùng xâm nhập qua da
Khi ấu trùng giun lươn lần đầu chui qua da, có thể có những hiện tượng
viêm ngứa kiểu dị ứng, chóng khỏi, bệnh nhân không để ý, những lần sau nặng
hơn. Nếu là ấu trùng giun lươn của động vật lạc chủ sang người thì triệu chứng
ngứa dữ dội, nổi ban đỏ từng đám, có thể kéo dài gần một tháng.
1.4.2. Giai đoạn ấu trùng ở phổi
Khi các ấu trùng di chuyển qua phổi, phế quản và khí quản có thể gây hiện
tượng xung huyết, ho khan và ngứa họng, hoặc sốt nhẹ, khó thở, khò khè và có
thể xuất hiện ho ra máu; hen hiếm gặp. Viêm phế quản phổi, viêm phế quản,
tràn dịch màng phổi, khó thở nặng, và áp xe thể kê có thể tiến triển; ho có thể ra
đờm nhầy mủ, không có mùi.
60