Page 48 - Giải phẫu chức năng hệ vận động + hệ thần kinh
P. 48

Khớp không vững cho thấy tầm hoạt động khớp quá độ, cử động bất thương, mat
            khả năng nâng đỡ trọng lượng cơ thể và bị khuỵu xuống bất thình lình
                Dáng đi  do đau  mang đặc  tính  là  tránh  chịu  sức  nặng trên  chân  đau  và bước
            ngắn.  Nếu  có  tổn  thương ở cột sôhg,  mẫu  dáng đi  là  đi  chậm  và  cơ  thê  đôi  xứng;
            tránh chạm gót mạnh cả hai chân; các bước chân đểu ngăn đê  làm  giảm  giai đoạn
            chịu sức nặng. Nếu bị đau vùng thắt lưng, người ta thấy vùng thắt lưng bị cứng đè
            bảo vệ các cơ lưng, độ ưỡn vùng thắt lưng bị giảm hay biên mất. Nêu bị tôn thương
             một bên —ví dụ, chèn ép rề thần kinh do thoát vị đĩa đệm —bệnh nhân thường làm


            giảm  đau  bàng  cách  nghiêng  người  sang  bên  lành.  Người  ta  còn  quan  sát  thấy
            bệnh  nhân  đi  với bước chán  ngắn  và tránh  thì chạm  gót.  Bệnh  nhân bị đau  khớp
            hông  sẽ  hạn  chê  áp  lực  cơ  học  lên  khốp  bằng  cách  chuyển  trọng  tâm  qua  khớp
            lành. Vì  thế,  trong suốt giai  đoạn chông,  ta thấy vai bên  đau  hạ  thấp  và  vai phía
            bên  lành hơi  nâng  lên và  một sự trượt của thân trên chân  chông.  Trong giai đoạn
            đu,  đặc biệt nếu chân  đau  nhiều,  chân  sẽ  gặp  nhẹ và  xoay  ngoài  đê  thư  giãn bao
            khớp  và  dây chằng.  Hạn  chê  thì  chạm  gót  đê  tránh  va  chạm.  Khi gỏi  bị  đau  thì
            thường gập nhẹ, đặc biệt khi đau nhiều,  để làm giảm sức căng.  Đôi khi bệnh nhân
            đi trên mũi bàn chân. Tối thiểu thì bệnh nhân tránh thì chạm gót.
            2. M au d án g  đi c ủ a  tô n  th ư ơ n g  th ầ n  k in h   tru n g  ư ơng
                Mẫu dáng đi thường gặp nhất là bệnh nhân bị đột quỵ gây liệt nửa người. Hầu
            hết  bệnh  nhân  di  chuyển  vối  mẫu đồng  vận  duỗi  (extensor  synergies).  Đồng vận
            duỗi bao gồm duỗi và xoay trong khớp hông,  duỗi  gối,  gập  lòng bàn  chân và ngón
            chân và  nghiêng trong bàn  chân.  Bệnh nhân có  thể  đi  lại  được  nếu  không có kết
            hợp thêm mất cảm giác trầm trọng, đặc biệt là cảm giác vị trí khớp, quên mất nửa
            thân bên liệt,  hay có khó  khăn  về thăng bằng.  Trong mẫu  dáng  đi  này,  chạm gót
            thường khòng có và thay vào đó là chạm  mũi  bàn chân.  Trong những trường hợp
            trầm trọng, bệnh nhân chỉ bước tối ngang chân trụ chứ không thể bước  quá để tạo
            thành bưâc tiếp theo. Vâi lý do này, thì đẩy tỏi cũng không có. Trong giai đoạn đu,
            chân liệt quét vòng và  đôi khi phối hợp với hông đẩy ra  trước.  Thêm vào đó, chân
            duy trì tình trạng co cứng duôi nên không gập  gối trong giai  đoạn  chông.  Do vậy,
            hông và  trọng tâm  nâng  nên  rất  cao.  ở  chi  trên,  tay ở vị thế khép  và  xoay trong
            khớp vai, gập ở khuỷu, cô tay và các ngón.
               Dang đi  thăt  thêu  (ataxic  gait)  xuất  hiện  khi  tôn  thương  tiểu  não  và  biểu thị
            động  tác  sai  tầm  đặc  hiệu  (typical  dysmetria)  và  mất  điều  hợp.  Sự  lảo  đảo  và cử
            đọng khong uyen chuyen được bù trừ băng dáng đi dang rộng chân (wid&—base gait).
                Bẹnh cua nhân đáy não như bệnh  P arkinson  tạo ra dáng đi đẩy  (festinating
            or  piopulsive  gait).  Đieu  có  thê  nhận  thây  là  cánh  tay  không  đung  đua  và bưóc
            chan  nhanh  nho  VỚI  sự  gia  tảng  tôc  độ  giông  như  bệnh  nhân  đang  chạy  đua  với
            chính trọng tâm của họ.  Cuôi cùng bệnh nhân có thể bị ngã.  Họ không thể ngừng
            hay đôì hướng đột ngột mà không có nguy cơ té ngã


            46
   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53