Page 138 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 138
Beam Therapy). Kỹ thuật port film và CBT tạo ra các “hình ảnh tức thời trong
chiếu xạ”, cho phép kiểm tra các vị trí giải phẫu khối u để có thể khẳng định sự
tối ưu của “bia” cần chiếu xạ. Kỹ thuật này được hiểu là xạ trị với sự hướng dẫn
của hình ảnh (IGRT). Kỹ thuật sử dụng MLC cho phép tạo ra những trường chiếu
có hình dạng bất kỳ tương ứng với kích thước, hình dạng của khối u. Cùng với sự
ra đời của hệ phần mềm với những thuật toán hết sức tinh vi, MLC có thể được
sử dụng trong kỹ thuật xạ trị điều biến liều lượng (IMRT). Với kỹ thuật này, liều
lượng được điều chỉnh ngay trong trong một chùm tia và đạt được phân bố liều
cao theo yêu cầu tại thể tích bia.
Ngoài ra, hiện nay kỹ thuật xạ trị phân liều theo “cổng” đã được đưa vào áp
dụng. Kỹ thuật này cho phép phân bố liều phóng xạ đồng bộ với những cử động
sinh lý - chẳng hạn nhịp thở của bệnh nhân. Nếu kết hợp các kỹ thuật đó với
nhau, sẽ ra đời kỹ thuật xạ trị bốn chiều (4-D), trong đó chiều thứ tư là thời gian.
Cơ sở của những tiến bộ công nghệ này là đảm bảo cho việc phân bố liều xạ tại
(các) thể tích bia được chính xác hơn, giảm liều có hại cho các tổ chức lành. Để
khai thác được hiệu quả những tiến bộ này, người ta phải có được đầy đủ những
thông tin về sự lan tỏa cũng như phân bố không gian của thể tích u. Ngoài ra,
những thông tin liên quan đến cử động ngay trong mỗi bộ phận của thể tích bia và
ảnh hưởng của những thay đổi đó đối với kế hoạch điều trị ra sao...
Điều cần thiết là cần phải hiểu rõ ý nghĩa của quy trình lập kế hoạch xạ trị
liên quan đến những tiến bộ công nghệ này ra sao. Kế hoạch điều trị có thể được
xem như một quy trình tổng thể mà các nhà ung thư học phải đảm trách khi tiếp
nhận điều trị bệnh nhân. Trong đó bao gồm việc thu nhận các thông tin chính xác
về chẩn đoán và phân loại giai đoạn bệnh từ hàng loạt các kỹ thuật xét nghiệm,
tiến hành xác định thể tích bia và lập kế hoạch điều trị v.v.. Bước xác định mang
tính đặc trưng hơn trong quy trình lập kế hoạch xạ trị là mô tả thể tích bia và
quyết định hướng cũng như hình dạng chùm tia. Theo cách hiểu này, các nhà ung
thư học được cho rằng họ phải hiểu biết đầy đủ về những vấn đề đã nêu và cả về
vai trò của kỹ thuật PET trong mô tả thể tích khối u. Với quan điểm đó, bài báo
này tập trung vào quá trình xác định thể tích khối u.
Các kế hoạch điều trị bằng tia xạ đã phát triển được dựa trên những hình ảnh
CT. Những hình ảnh này cung cấp các số liệu về đặc tính suy giảm của chùm tia-
X bên trong cơ thể bệnh nhân cũng như chỉ rõ những tổ chức, những cấu trúc để
đưa ra những đặc trưng và mô tả thể tích bia. Điều cần phải hiểu một cách rõ ràng
là thuộc tính này không phản ánh được quá trình sinh hóa và các tế bào lớp dưới
và để điều trị được hiệu quả thì các loại tế bào này (hoạt động chức năng hơn là
về mặt giải phẫu) cũng cần được tính đến trong thể tích bia. Do đó, điều này đã
dẫn đến những nghiên cứu về “phương pháp luận trong chẩn đoán hình ảnh” để
bổ sung những thông tin giải phẫu liên quan đến hoạt động ở mức phân tử bị hạn
chế từ các hình ảnh tia-X thông thường. MRI có thể cung cấp những thông tin về
hoạt động chức năng, mặc dù còn hạn chế về đánh giá sự lan toả của khối u. Tuy
nhiên, những kỹ thuật dựa trên phương pháp đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ, và
tùy loại đầu dò được sử dụng mà độ đặc hiệu với các quá trình hoá sinh cao gấp
3
6
10 -10 lần so với MRI. Chụp cắt lớp bằng đồng vị phát positron là một trong
138