Page 107 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 107

lâm sàng vào năm 1974-1976. Giai đoạn này, máy CT chỉ được dùng để chụp sọ
               não, thời gian chụp một lát cắt mất vài giờ.
                       Từ những năm 80 trở về sau, CT được ứng dụng rộng rãi hơn trong lâm
               sàng. CT được áp dụng cho tất cả các bộ phận trong cơ thể, thời gian chụp nhanh
               hơn và chất lượng hình ảnh cao hơn.
                       Các thế hệ máy CT không ngừng được cải tiến. Từ máy một lát cắt; thế hệ
               máy chụp xoắn ốc (Spiral CT) đến thế hệ máy đa lát cắt (2, 4, 6….320, 640 lát
               cắt)...Hiện nay, trên thế giới có trên 30.000 máy CT được lắp đặt.
                       CT  SCANNER:  CT  =  Computerized  Tomography;  CT  Sim  =  CT
               Simulator. Công dụng (Two-in-One) chụp CT chẩn đoán và mô phỏng xạ trị. Ông
               Godfrey Hounsfield (1919-2004) là một kỹ sư ngành điện, người Anh. Ông đã
               cùng với Allan McLeod Cormack giành giải Nobel Sinh Lý và Y khoa năm 1979
               cho công trình triển khai kỹ thuật X-quang cắt lớp có sự hỗ trợ của máy tính.
               Chiếc  máy  chụp  cắt lớp  vi tính  do Hounsfield phát  minh vào  năm 1972 được
               dùng để chụp phần đầu. Máy tính đó giúp tỷ lệ chẩn đoán chính xác cao đối với
               những khối u não.
               1.2.2. Nguyên lý hoạt động
               * Thuật ngữ:
                       Vì thiết bị chụp CLVT sử dụng bức xạ Roentgen nên được xếp trong lĩnh
               vực X-quang chẩn đoán. Danh từ tiếng Anh là Computed Tomography Scanner
               (viết tắt là CT Scanner) được dịch ra tiếng Việt là chụp cắt lớp vi tính hay chụp
               cắt lớp điện toán. Danh từ tiếng Pháp là Tomodensitometrie (viết tắt là T.D.M),
               dịch sang tiếng Việt là chụp cắt lớp đo tỷ trọng.
               * Nguyên lý chụp CLVT:
                       Cửa số chùm tia-X phát ra từ bóng X-quang có kích thước hình chữ nhật,
               với chiều rộng bằng độ dày lớp cắt (thường từ 1mm-10mm) và chiều dài là phạm
               vi chùm tia chiếu lên toàn bộ cơ thể (vùng sọ, ngực hoặc bụng…). Vì thế, hình
               ảnh thu được của một lớp cắt sẽ là một tiết diện cắt ngang qua trục cơ thể có độ
               dày định trước. Khi chùm tia-X chiếu qua cơ thể từ nhiều hướng khác nhau, tỷ
               trọng của từng điểm trên tiết diện cắt sẽ được bộ phận phát hiện điện tử (các
               detectors) ghi nhận. Do tỷ trọng ở từng điểm trên lớp cắt khác nhau, nên mức độ
               hấp thụ tia-X của chúng cũng khác nhau. Vì thế, năng lượng còn lại của tia-X sau
               khi đi qua những điểm này cũng khác nhau. Những thông số về KQ được máy
               tính  ghi  vào bộ  nhớ  và  cuối cùng  sẽ  mã  hóa  từ những  yếu tố  thể tích (Voxel
               Volume Elements) để biến đổi thành yếu tố hình ảnh (Pixel Picture Elements).
               Như vậy, cơ chế tạo ảnh trong chụp CLVT khác với chụp X-quang quy ước ở
               chỗ: Bộ phận phát hiện điện tử sẽ thay thế phim X-quang để thu nhận tín hiệu của
               tia-X sau khi chiếu qua cơ thể. Ảnh trên phim chụp CLVT không phải là ảnh tạo
               nên do tia-X trực tiếp tác dụng trên phim mà là ảnh số hóa các dữ liệu trên bộ nhớ
               của máy vi tính.
               1.2.3. Đơn vị đo tỷ trọng
                       Để xác định hằng số tỷ trọng của các mô trong cơ thể, Hounsfiled đã xác
               lập một bậc thang tỷ trọng như sau: Nước tinh khiết có tỷ trọng bằng “0”, lấy đơn
               vị là Hounsfield Unit – HU. Dịch và các tổ chức có tỷ trọng cao hơn nước sẽ có
               hằng số tỷ trọng lớn hơn “0”. Chẳng hạn xương có tỷ trọng cao nhất, có thể trên
               2000 HU. Các mô hoặc ổ bệnh lý chứa khí sẽ có tỷ trọng nhỏ hơn “0” (tỷ trọng


                                                           107
   102   103   104   105   106   107   108   109   110   111   112