Page 90 - Kiểm nghiệm thuốc
P. 90
ngày. Ánh sáng khuếch tán phải phù hợp để có thể phân biệt được hỗn dịch đối
chiếu I với nước cất và với hỗn dịch đối chiếu II.
Đánh giá kết quả
Một chất lỏng được coi như trong nếu nó tương đương với độ trong của nước
hay của dung môi đã dùng khi thử nghiệm trong những điều kiện như đã mô tả,
hoặc nếu chất lỏng đó hơi đục nhẹ thì cũng không được đục quá hỗn dịch chuẩn đối
chiếu số I.
Các yêu cầu khác nhau về độ đục được biểu thị theo hỗn dịch chuẩn đối
chiếu số I, II, III, và IV.
1.2. Xác định màu sắc của dung dịch
Màu sắc của dung dịch trong phạm vi nâu - vàng - đỏ được xác định theo một
trong hai phương pháp dưới đây, tuỳ theo yêu cầu. Một dung dịch được coi là không
màu nếu nó giống như nước cất hay dung môi dùng để pha dung dịch đó, hoặc có
màu không thẫm hơn dung dịch màu đối chiếu N9.
Phương pháp 1
Dùng những ống thủy tinh trung tính, không màu, trong suốt và giống hệt
nhau, có đường kính ngoài 12 mm để so sánh 2,0 ml dung dịch thử với 2,0 ml nước
cất, hoặc dung môi, hoặc dung dịch màu đối chiếu (Bảng 10.a tới 10.e) theo chỉ dẫn
trong chuyên luận. Quan sát màu của dung dịch dọc theo trục ống, dưới ánh sáng
khuếch tán, trên nền trắng.
Phương pháp 2
Dùng những ống thủy tinh trung tính, đáy bằng, không màu, trong suốt,
giống hệt nhau và có đường kính trong từ 15 - 25 mm để so sánh lớp dung dịch
thử có bề dày 40 mm với lớp chất lỏng có bề dày 40 mm của nước cất, hoặc dung
môi, hoặc dung dịch màu chuẩn (Bảng 10.a tới 10.e) theo yêu cầu. Quan sát màu
của dung dịch dọc theo trục ống, dưới ánh sáng khuếch tán trên nền trắng.
Pha chế các dung dịch gốc
Dung môi A: 25 ml acid hydrocloric hoà vào 975 ml nước cất.
Dung dịch gốc màu vàng: Hoà tan 46 g sắt (III) clorid trong dung môi A
cho vừa đủ 1000 ml. Chuẩn độ rồi điều chỉnh bằng dung môi A để có dung dịch chứa
86