Page 169 - Bào chế
P. 169

Ví dụ:  Thuốc bột  ORESOL
                                     Glucose khan                                 20,0 g

                                       Natri clorid                                      3,5 g
                                           Natri citrat                                      2,9 g
                                          Kali clorid                                      1,5 g
                  1.2.2. Dựa vào cách phân liều đóng gói

                        Có 2 loại: Bột phân liều và bột không phân liều.
                  1.2.2.1. Bột phân liều
                        Là  thuốc  bột  sau  khi  điều  chế  xong,  được  chia  sẵn  thành  liều  một  lần  dùng.
                  Thuốc bột phân liều thường dùng để uống.
                   Ví dụ: Thuốc bột    ACETYLCYSTEIN,  hàm lượng thường dùng 200mg/ gói , đóng
                  30 gói/ hộp
                  1.2.2.2. Bột không phân liều

                        Là thuốc bột sau khi bào chế xong, người bào chế đóng gói toàn bộ lượng bột
                  thuốc vào bao bì thích hợp, người bệnh có thể tự phân liều khi dùng.

                   Ví dụ : Thuốc bột NATRI HYDROCARBONAT, hàm lượng  50g, 100g
                  1.2.3. Dựa theo cách dùng
                        Trên thực tế, thuốc bột được dùng theo nhiều con đường khác nhau:
                  1.2.3.1. Thuốc bột để uống: Là loại thuốc bột hay gặp nhất, thường được phân liều
                  dùng (nếu đóng nhiều lần dùng thì thường đóng kèm theo dụng cụ phân liều theo thể
                  tích).
                        Thuốc bột để uống có nhiều loại: Để uống trực tiếp, để pha thành dung dịch
                  (thường chế dưới dạng sủi bọt), pha thành hỗn dịch. Với trẻ em hay dùng loại bột để
                  pha siro (dưới dạng hoà tan hay dạng hỗn dịch). Ví dụ : thuốc bột AZYTHROMYCIN,
                  CEPHALECIN...
                        Loại để uống trực tiếp thường được chiêu với nước hay một chất lỏng thích hợp
                  (nước đường, nước hoa quả, nước cháo…). Loại để pha dung dịch hay hỗn dịch phải
                  hoà tan hay phân tán trước khi uống.
                  1.2.3.2. Thuốc bột để dùng ngoài: Có thể dùng để xoa, để rắc, để đắp trên da lành hoặc
                  da  bị  tổn  thương  (thuốc  bột  dùng  cho  vết  thương  phải  vô  khuẩn).  Thuốc  bột  dùng
                  ngoài thường phải là bột mịn hoặc rất mịn để tránh kích ứng.
                        Ngoài ra còn có các loại thuốc bột dùng trên niêm mạc (như thuốc bột dùng để
                  hít, để phun mù, để thổi vào mũi, vào tai…) hoặc để pha tiêm, pha thuốc nhỏ mắt. Các
                  loại thuốc bột này sẽ được xem xét tại các dạng thuốc tương ứng.
                  1.3. Thành phần
                        Có những chế phẩm  thuốc bột trong thành  phần chỉ có dược chất (thuốc bột
                  NATRI HYDROCARBONAT,  ORESOL)    nhưng nhiều chế phẩm thuốc bột,  ngoài
                  dược chất, còn có tá dược (thuốc bột ACETYLCYSTEIN, AZYTHROMYCIN...).
                         Trong thuốc bột thường gặp các tá dược sau:

                        - Tá dược độn hay pha loãng: Thường gặp trong bột nồng độ, dùng để pha loãng
                  các dược chất độc hay tác dụng mạnh. Trong đó hay dùng nhất là lactose.

                        - Tá dược hút: Dùng cho các bột kép có chất lỏng, mềm, chất háo ẩm tham gia
                  vào thành phần của thuốc bột. Hay dùng các loại như calci carbonat, magnesi carbonat,
                                                                                                        166
   164   165   166   167   168   169   170   171   172   173   174