Page 75 - Giao trinh- Chăm sóc sức khỏe phụ nữ
P. 75
Thời Hùng Vương dựng nước, dân số Việt Nam mới chỉ có khoảng 1
triệu người. Đến đầu công nguyên chưa đầy 2 triệu người và hiện nay đã là
85.789.573 người (Tổng điều tra 1/4/2009) đứng hàng thứ 13 trên thế giới
về qui mô dân số.
Đặc biệt trong vòng nửa thế kỷ, từ 1945 đến l995 dân số đã tăng từ
23 triệu lên 74 triệu (tăng hơn 3,2 lần).
Dân số nước ta đông, nhưng phân bố không đồng đều giữa các vùng
trong nước. Đồng bằng mật độ dân số quá cao, số người tăng thêm hàng
năm khá lớn, nhưng khả năng mở rộng sản xuất lại có hạn. Trong khi đó
miền núi đất đai khá rộng, có ưu thế phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi,
nghề rừng, nhưng mật độ dân cư lại thưa thớt, thiếu lao động. Chẳng hạn,
đến năm 1989 Tây Nguyên chiếm 17% diện tích nhưng chỉ chiếm 2,8% dân
số, trong khi đó đồng bằng Sông Hồng chỉ chiếm có 5,2% diện tích nhưng
chiếm 21,1% dân số.
Bên cạnh đó, một số tỉnh ở Vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung bộ có quy mô dân số không tăng thậm chí giảm chút ít sau 10 năm,
do số dân tăng tự nhiên không thể bù đắp được số người chuyển đi làm
ăn, sinh sống ở các tỉnh, thành phố khác như: Hà Nam, Nam Định, Thanh
Hoá, Hà Tĩnh...
Theo báo cáo sơ bộ kết quả Tổng Điều tra Dân số năm 2009 của
Tổng cục thống kê: Quy mô dân số nước ta là 85.789.573 người được phân
bố trên sáu vùng kinh tế - xã hội của đất nước. Vùng đông dân nhất là Đồng
bằng sông Hồng (19.577.944 người), tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung (18.835.485 người) và Đồng bằng sông Cửu Long
(17.178.871 người). Vùng có số dân ít nhất là Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh với
dân số là 5.107.437 người.
Dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính 92,70 triệu người,
tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với năm 2015, bao
gồm dân số thành thị 32,06 triệu người, chiếm 34,6%; dân số nông thôn
60,64 triệu người, chiếm 65,4%; dân số nam 45,75 triệu người, chiếm
49,4%; dân số nữ 46,95 triệu người, chiếm 50,6%.
Số liệu cho thấy, dân số Việt Nam phân bố không đều và có sự khác
biệt lớn theo vùng. Hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông
Cửu Long, là châu thổ của hai sông lớn, nơi có đất đai màu mỡ và điều kiện
canh tác nông nghiệp thuận lợi, có 43% dân số của cả nước sinh sống.
Ngược lại, hai vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, là
những vùng núi cao điều kiện đi lại khó khăn và là nơi các dân tộc thiểu số
sinh sống chủ yếu, chỉ chiếm dưới một phần năm (gần 19%) dân số của cả
nước.
Cơ cấu dân số
Hiện nay Việt Nam đang trong thời kỳ của “Cơ cấu dân số vàng”.
Đó là : tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33,1% năm 1999 xuống còn
24,5% năm 2009. tỷ trọng dân số nhóm tuổi 15- 64 tăng từ 61,1% lên
74