Page 63 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 63
Sau khi virus nhân lên, nhiễm sắc thể của tế bào bị gãy. Những mảnh
gãy này sắp xếp lại gây ra sự sai lạc nhiễm sắc thể. Phụ nữ có thai những
tháng đầu nếu mắc bệnh do virus có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh cho thai nhi.
- Tạo hạt virus không hoàn chỉnh
Đó là các hạt virus chỉ có capsid mà không có acid nucleic. Các hạt
virus không hoàn chỉnh không có khả năng gây nhiễm cho tế bào.
- Tạo ra tiểu thể trong tế bào
Các virus hoặc thành phần của virus sau khi tạo thành không được giải
phóng mà tồn tại trong nguyên sinh chất tạo thành các tiểu thể gây tổn thương tế
bào.
- Chuyển thể tế bào
Bộ gen của virus tích hợp vào bộ gen tế bào làm tế bào biểu hiện những
tính chất mới. Nhiều khối u ác tính được tạo thành do virus mang gen ung thư
hoặc kích thích gen ung thư của tế bào hoạt động.
- Tế bào trở thành tế bào tiềm tan
Các virus ôn hòa xâm nhập vào tế bào. Khi gặp những kích thích của
các tác nhân từ bên ngoài thì virus ôn hòa trở thành virus độc lực có thể gây ly
giải tế bào. Vậy những tế bào tiềm tan có khả năng bị ly giải, chúng còn được
gọi là tế bào mang provirus (tiền virus).
- Sản xuất interferon
Đây là một protein do tế bào cảm thụ sản xuất, có tác dụng ức chế quá
trình tổng hợp protein của virus. Do vậy interferon được sử dụng như một
thuốc điều trị không đặc hiệu cho mọi nhiễm trùng do virus.
2.5. Nguyên tắc phòng và điều trị bệnh
2.5.1. Nguyên tắc phòng bệnh
Các biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu như cách ly bệnh nhân, khử
trùng, tiệt trùng, diệt côn trùng truyền bệnh… được áp dụng thích hợp trong
từng bệnh, từng vụ dịch.
Phòng bệnh đặc hiệu bằng vacxin:
- Vacxin sống giảm độc: vacxin phòng bại liệt, sởi.
63