Page 11 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 11
1.3.2. Các tế bào thực bào
Thực bào là quá trình một số tế bào tiêu hóa các chất lạ như vi khuẩn,
virus hoặc các chất bụi bằng cách bao bọc các chất lạ này trong túi thực bào,
sau đó chúng tiết ra các enzyme và các gốc peroxid để phân hủy chất lạ. Nếu
chất lạ có khả năng chống thực bào, nó được giữ lại trong túi thực bào và do
đó không có sự tương tác hơn nữa với vật chủ. Có hai nhóm tế bào thực bào là
bạch cầu đa nhân trung tính trong máu và đại thực bào ở mô. Trong giai đoạn
sớm của viêm, số lượng bạch cầu đa nhân trung tính tăng để bảo vệ cơ thể.
Các đại thực bào thường được cố định vững chắc trong các mô gọi là
hệ lưới nội mô có tên gọi khác nhau như: đại thực bào phế nang, tế bào
Kupffer trong gan, tế bào Microglia ở não ... Chúng đặc biệt phong phú ở lá
lách, gan, hạch bạch huyết và tủy xương nhưng cũng nằm rải rác khắp các
mạch máu và hầu hết tất cả các mô khác của cơ thể. Việc loại bỏ chất bụi
cũng như các tổ chức hoại tử được thực hiện một cách hiệu quả nhờ các đại
thực bào cố định ở tổ chức.
1.3.3. Đáp ứng viêm
Khi nào các tế bào bị tổn thương hoặc bị phá hủy, sẽ diễn ra một loạt
các phản ứng hóa học gây giãn mạch máu và thu hút các bạch cầu, được gọi là
phản ứng viêm, nhằm ngăn chặn các tác nhân gây hại và giúp cho việc hồi
phục bình thường của cơ thể.
Viêm gây ra sự giải phóng các chất trung gian hóa học và làm tăng tính
thấm thành mạch làm thoát huyết tương, xuyên bạch cầu, tăng sinh tế bào
bạch cầu và hiện tượng thực bào tại ổ viêm. Có 4 triệu chứng điển hình của
phản ứng viêm là sưng, nóng, đỏ và đau, tuy nhiên không phải mọi phản ứng
viêm đều có đầy đủ 4 triệu chứng này.
Những thay đổi về hình thái và sinh hóa gặp trong phản ứng viêm diễn
biến qua 3 giai đoạn: giai đoạn tổn thương tổ chức, giai đoạn rối loạn vận
mạch và thoát dịch rỉ viêm, giai đoạn tăng sinh tổ chức để hàn gắn tổn
thương.
11