Page 15 - Hóa phân tích
P. 15
Nếu bên gửi mẫu đã chỉ định phương pháp (ví dụ: phương pháp của Dược điển
Việt Nam hay tiêu chuẩn cơ sở) thì nhiệm vụ của bên phân tích trở nên đơn giản.
Nhưng nếu bên gửi mẫu chỉ yêu cầu về độ đúng, độ chính xác của kết quả thì
cần lựa chọn phương pháp phù hợp. Mẫu yêu cầu càng cao thì càng cần nhiều thời
gian và chi phí. Vì vậy việc lựa chọn phương pháp cần thõa mãn yêu cầu của bên gửi
mẫu cả về kỹ thuật và chi phí.
- Dựa trên đặc điểm khác nhau của phương pháp vì tính chọn lọc và giới hạn
định lượng để lựa chọn. Ví dụ: vùng nồng độ thường dùng trong một số phương pháp
phân tích dụng cụ:
Quang phổ UV-VIS: ≥ 0,5 µg/ml
Sắc ký lỏng : 5÷1000 ng/ml
Sắc ký khí : 0,1÷100 ng/ml
Phóng xạ : ≥ 0,05 µg/ml
- Dựa trên đặc điểm của mẫu thử : mẫu thử có thể là nguyên liệu, hợp chất, dạng
bào chế, dịch sinh học... Vì vậy tùy theo thành phần của mẫu thử mà có cách xử lý
thích hợp.
- Dựa trên đặc điểm của chất phân tích: những tính chất hóa lý của chất phân tích
(điểm chảy, năng suất quay cực, hấp thụ bức xạ UV-VIS, IR, tính chất hòa tan, tính
acid – base…) người phân tích lựa chọn kỹ thuật tách chiết và định lượng thích hợp.
Ngoài ra phải dựa vào năng lực của phòng thí nghiệm như : trình độ, tay nghề
người thực hiện phân tích, trang thiết bị kỹ thuật, hóa chất, thuốc thử… mà quyết định
có hay không thực hiện phân tích mẫu.
3.3. Bước 3: Lấy mẫu và bảo quản mẫu
Việc lấy mẫu phải đáp ứng được mục tiêu của phân tích. Đây là một trong
những giai đoạn quan trọng của phân tích nhưng hay bị xem nhẹ, vì vậy hay xảy ra sai
số nhiều, ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết quả phân tích.
- Xây dựng chương trình lấy mẫu cần lưu ý đến:
+ Mục tiêu của phân tích mẫu
+ Tính chất của quần thể mẫu: trạng thái vật lý (lỏng, rắn, khí) ở dạng đồng
thể hay dị thể
+ Số mẫu cần lấy và tần suất lấy mẫu
- Xác định cách lấy mẫu: có thể phân thành 4 cách lấy mẫu chính
6