Page 60 - Giáo trình môn học vi sinh vật học
P. 60
các kháng thể đặc hiệu. Các kháng thể này có thể sử dụng để trung hoà tác dụng gây bệnh
của enzym, như người ta đã dùng kháng thể chống coagulase, để ngăn cản sự lan tràn của
Clostidium perfrigens gây bệnh hoại thư.
Một số kháng nguyên enzym cũng được sử dụng trong chẩn đoán. Ví dụ sử dụng
steptolysin O của liên cầu nhóm A để chẩn đoán bệnh thấp bằng phản ứng ASLO.
2.3. Kháng nguyên vách tế bào (kháng nguyên thân O)
Trừ Mycoplasma, còn mọi vi khuẩn đều có vách. Vách vi khuẩn có thành phần
hoá học cơ bản là peptidoglycan. Ngoài thành phần này ra, vách còn bao gồm một số lớp
khác, tuỳ theo loại vi khuẩn và tính chất bắt mầu Gram của chúng:
- Vi khuẩn Gram dương:
Ngoài lớp peptidoglycan, ở nhiều vi khuẩn Gram dương còn có thêm lớp acid
teichoic bám bên ngoài. Acid này và/hoặc lớp polisaccarỉt tạo nên tính đặc hiệu kháng
nguyên O.
Một số vi khuấn còn có một số kháng nguyên khác bao ngoài lớp acid teichoic và
polysaccarit, như protein M (của liên cầu hoặc phế cầu), protein A (của tu cầu vàng),
hoặc lớp sáp (của Mycobacterium)...
Tuỳ mỗi loại vi khuẩn mà một trong các lớp trên quyết định tính đặc hiệu kháng
nguyên thân của chúng.
- Vi khuẩn Gram âm:
Cấu trúc kháng nguyên của vách vi khuẩn Gram âm phức tạp hơn các vi khuẩn
Gram dương Nhưng giữa các vi khuẩn Gram âm có các lớp kháng nguyên vách gần như
nhau. Tính đặc được quyết định bơỉ lớp polisaccarit ngoài cùng.
Lớp cơ bản nhất của vách vi khuẩn Gram âm vẫn là peptidoglycan. Bao bên ngoài
lớp này là các lớp photpholipit A và B (lớp này quyết định tính độc của nội độc tố), sau
đó là hai lớp polisaccar. Lớp polisaccarrit trong không mang tính đăc hiệu. Kháng nguyên
của nối đôc tố có bản chất hoá học là lipopolisaccarit, nên thương được viết tắt là LPS.
Tính đặc hiệu của kháng nguyên O và của LPS là một. Nhưng tính miễn dịch thì có khác
nhau: Kháng nguyên O ngoài LPS còn bao gồm cả lớp peptidoglycan, nên tính sinh miễn
dịch của nó mạnh hơn LPS.
60