Page 139 - Giáo trình môn học thực hành vi sinh
P. 139
phút, dùng pipet Pasteur hút lấy phần huyết thanh (tuyệt đối không được lẫn hồng
o
cầu). Huyết thanh được bảo quản ở -20 C cho tới khi làm xét nghiệm. ở phần lớn các
kỹ thuật mỗi bệnh nhân phải được lấy máu 2 lần: lần 1 lấy khi bệnh nhân mới vào
viện gọi là máu 1, lần 2 lấy sau lần 1 ít nhất 7 ngày gọi là máu 2. Hai máu phải được
xét nghiệm cùng lúc trong cùng điều kiện để tìm động lực kháng thể.
3. Các kỹ thuật huyết thanh chẩn đoán
Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang dùng nhiều các kỹ thuật chẩn
đoán huyết thanh để chẩn đoán các bệnh nhiễm vi sinh vật như: huỳnh quang, ELISA,
phóng xạ, ngưng kết… Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ giới thiệu 4 kỹ thuật chẩn
đoán nhanh đang được sử dụng nhiều ở các bệnh viện.
3.1. Kỹ thuật RPR (Rapid Plasma Reaction)
Dùng để chẩn đoán giang mai thời kỳ II và III.
3.1.1. Nguyên lý
Là phản ứng ngưng kết thụ động, không đặc hiệu, kháng nguyên là chất lipoit
(cardiolipin) chiết xuất từ tim bò có cấu tạo hóa học giống với chất lipoit của xoắn
khuẩn giang mai; khi gặp kháng thể reagin có trong huyết thanh bệnh nhân sẽ có hiện
tượng ngưng kết.
3.1.2. Cách tiến hành
- Lấy 3 giọt máu đần ngón tay, nhỏ lên ô tròn to trên phiến giấy đã có sẵn chất
chống đông, trộn đều.
- Chờ vài phút, hồng cầu lắng, gạn huyết tương xuống ô nhỏ phía dưới.
- Nhỏ 1 giọt kháng nguyên cardiolipin đã được gắn trên những hạt carbon, lắc đều.
3.1.3. Cách đọc
Sau 10 phút, đọc kết quả:
+ Có hạt ngưng kết đen, dung dịch trở nên trong: dương tính (+)
+ Không có hạt ngưng kết: âm tính (-)
Đây là phản ứng không đặc hiệu nên ở một số phụ nữ có thai trên 7 tháng hay
bệnh nhân bị sốt rét hoặc bị thận hư nhiễm mỡ, cũng cho phép phản ứng dương tính.
Vì vậy khi kết quả dương tính cũng chưa khẳng định chắc chắn được là bệnh nhân
mắc bệnh giang mai. Cần phải kết hợp với lâm sàng, tiền sử và nếu có điều kiện nên
làm xét nghiệm với các phản ứng đặc hiệu.
139