Page 100 - Hóa phân tích
P. 100
- Khi định lượng bằng phương pháp thế và thừa trừ cho chỉ thị hồ tinh bột vào lúc
dung dịch chuyển sang màu vàng nhạt (thời điểm gần tương đương), nếu cho chỉ
thị sớm thì hồ tinh bột sẽ hấp phụ một phần iod và giải phóng iod chậm do đó kết
quả định lượng sẽ bị sai số.
- Khi định lượng bằng phương pháp thế, phản ứng giữa kali iodid với chất oxy hoá
cần định lượng phải được tiến hành từ 10 đến 15 phút để phản ứng xảy ra hoàn
toàn, đồng thời để kali iodid không bị phân huỷ thành iod, cần tránh ánh sáng do
phản ứng: 4 I O 4 H as I 2 H 2 O
2
2
3.4 Một số ví dụ
3.4.1. Định lượng natri thiosulfat
Natri thiosulfat (natri hyposulfit) có tính khử mạnh, có thể dùng dung dịch
chuẩn độ iod 0,1N để định lượng theo phương pháp định lượng trực tiếp:
-
2-
2-
2S 2O 3 + I 2 2I + S 4O 6
Để xác định điểm tương đương, chọn chỉ thị hồ tinh bột. Tại điểm tương
đương khi một giọt dung dịch iod dư làm cho dung dịch có màu xanh.
Môi trường định lượng phải trung tính hay base yếu, không tiến hành trong
2-
môi trường acid vì ion S 2O 3 bị phân huỷ thành lưu huỳnh nguyên tố:
2-
+
2H + S 2O 3 S + SO 2 + H 2O
3.4.2. Định lượng dung dịch glucose
Glucose có công thức cấu tạo: CH 2(OH) – (CHOH) 4 – CHO
Trong phân tử có nhóm chức aldehyd nên glucose có tính khử, do vậy có thể
dùng dung dịch chuẩn độ iod để định lượng dung dịch glucose bằng phương pháp
thừa trừ.
Dược điển Việt Nam qui định sử dụng phương pháp thừa trừ để định lượng
dung dịch glucose như sau: cho một thể tích chính xác dung dịch glucose cần định
lượng tác dụng với một thể tích chính xác và quá dư dung dịch iod. Sau đó dùng
dung dịch chuẩn độ natri thiosulfat (có cùng nồng độ với dung dịch iod) để định
lượng iod thừa.
- Các phản ứng chính xảy ra khi định lượng:
95