Page 58 - Giáo trình môn học lý thuyết X-Quang chuẩn đoán
P. 58
4. LAO PHỔI THÂM NHIỄM SỚM
1. Đại cương
- Năm 1922 Assmann đặt ra danh từ thâm nhiễm sớm để chỉ những đám
mờ ở phổi lớn hoặc nhỏ, không có bờ rõ nét, có vị trí hay gặp ở dưới xương
đòn, phần nhiều ở góc ngoài trong một trường phổi sáng và với hai đỉnh phổi
không có tổn thương bệnh lý. Các tổn thương này có xu hướng loét thành
hang nhanh chóng và rất quan trọng về phương diện là những ổ lao đầu tiên.
- Giải phẫu bệnh: thâm nhiễm sớm là một ổ viêm phổi bã đậu hoá với
xuất dịch huyết thanh tế bào dải ra xung quanh ổ lao.
- Triệu chứng lâm sàng: nhiều khi thâm nhiễm sớm không có triệu
chứng lâm sàng, được phát hiện ra tình cờ trong khám X quang hàng loạt
nhưng thường bệnh nhân có đợt sốt nhẹ về chiều, gầy xanh, sút cân, cũng có
bệnh nhân ban đầu sốt cao một vài ngày sau đó sốt nhẹ dai dẳng về chiều.
4.2. Hình ảnh X quang
- Trên phim chụp xuất hiện một đám mờ tròn nhỏ, không đồng đều kiểu
như đám mây nhỏ, bờ không rõ nét. Những thâm nhiễm sớm nhỏ có thể bị các
xương sườn hoặc xương đòn che lấp.
- Tổn thương thường biến đổi nhanh, nếu được điều trị tốt tổn thương
có thể biến đi hoặc để lại sẹo. Nếu không được điều trị có thể tạo thành hang
hoặc tiến triển thành thể lao khác.
Chẩn đoán phân biệt với các tổn thương trong các bệnh lý:
+ Thâm nhiễm mau bay:
Hình mờ nhạt hơn và mất nhanh sau một đến hai tuần. Bạch cầu ái toan
tăng, phản ứng tuberculin âm tính. Nguyên nhân có thể do ký sinh trùng hay
virus.
+ Viêm phổi không điển hình:
Thường có nhiều ổ ở các vùng khác nhau của phổi. Nếu tổn thương chỉ
khu trú ở vùng dưới đòn, chẩn đoán phân biệt về X quang trở nên khó khăn.
Tuy nhiên tổn thương của viêm phổi sẽ mất nhanh hơn về điều trị với các
thuốc kháng sinh thông thường và không có di chứng.
58