Page 54 - Giáo trình môn học Nguyên lý tạo ảnh
P. 54
Hình 2.8. Tái tạo hình ảnh từ mặt
phẳng ngang (a) thành mặt phẳng
đứng ngang (b) và mặt phẳng
đứng dọc (c).
a
b
c
Người ta có thể sử dụng máy chụp cắt lớp vi tính để có một hình toàn thể như
phim chụp X quang ở tư thế thẳng hoặc chếch hoặc nghiêng, bằng cách đi này thường
mở đầu cho khám xét bằng chụp cắt lớp vi tính và để thầy thuốc có một hình ảnh tổng
quát về khu vực muốn thăm khám và trên cơ sở đó phân chương trình quét, đặt độ
dày cũng như khoảng cách giữa các lớp cắt... ảnh này có tên gọi khác nhau: ảnh định
khu (Topogramme), ảnh hướng dẫn (Scout - view), ảnh X quang vi tính (Computed
radiography).
Tuỳ theo khu vực muốn thăm khám ta phải chọn các mốc giải phẫu thích hợp
cho các lớp cắt. Thí dụ ở sọ thông thường là các mặt cắt song song với đường khoé
mắt - lỗ tai ngoài (ligne orbio – meatale: OM), ở ngực và ở bụng cũng là những lớp
cắt theo trục ngang và các mốc giải phẫu là mũi ức và mào chậu. Các lớp cắt thường
dày từ 1 đến 10 mm và lớp nọ tiếp với lớp kia.
Khi đã có những hình ảnh cần thiết và hữu ích cho việc chẩn đoán bệnh, nhờ
một bộ phận chụp ảnh có trong máy, người ta có thể chụp những hình ảnh trên với
những kích thước khác nhau.
Máy chụp cắt lớp vi tính lưu trữ các hình ảnh trong các băng hoặc đĩa từ. Khi
cần thiết, sau này người ta có thể sử dụng máy để nghiên cứu các hình ảnh đã lưu trữ
đó vào bất cứ lúc nào.
1.3. Đơn vị Hounsfiled
Cấu trúc hấp thụ tia X càng nhiều thì mật độ hay tỷ trọng quang tuyến X càng
cao, vì vậy theo người Pháp còn gọi phương pháp chụp cắt lớp vi tính là chụp cắt lớp
đo tỷ trọng (tomodensitmetrie). Dựa vào hệ số suy giảm tuyến tính (linear attenuation
coefficient) của chùm tia X khi đi qua một cấu trúc, người ta có thể tính ra tỷ trọng của
cấu trúc đó theo đơn vị Hounsfield qua công thức:
54