Page 106 - Giáo trình môn học Nguyên lý tạo ảnh
P. 106

máy chụp cắt lớp phải bé hơn từ 1 dến 10 phần triệu (ppm) của một vùng có đường
               kính độ chừng 40cm. Để đạt được tính đồng nhất ở mức độ cao, phải chú ý trong
               khâu thiết kế nam châm và dung sai trong quá trình chế tạo. Độ lệch về cường độ
               trường theo thời gian thường yêu cầu nhỏ hơn 0.1 ppm/h.
                      Có hai đơn vị cường độ từ trường được sử dụng thông dụng là Gauss (G) và
               Tesla (T) (1T = 10.000G). Từ trường tĩnh của máy MRI hiện đại thường có cường độ
               từ trường nằm trong phạm vi từ 0.5 đến 1.5 T. Tỷ số tín hiệu trên tạp âm (SNR) là tỷ
               số của điện áp tín hiệu NMR trên điện áp tạp âm. Tỷ số này tăng lên trong cơ thể
               bệnh  nhân  và  trong  các  thành  phần  của  hệ  thống  thu  tín  hiệu.  SNR  là  một  trong
               những thông số then chốt xác định khả năng thực hiện của máy cộng hưởng từ. Giá
               trị SNR tăng tuyến tính theo cường độ trường. Khi cường độ trường được tăng lên thì
               tỷ số SNR được cải thiện. Đó là nguyên nhân chính để chế tạo các nam châm có từ
               tính cao cho hệ thống MRI.
                            Nam châm tạo ảnh là thành phần đắt nhất và quan trọng nhất của máy cộng
               hưởng từ và nam châm là phần bao quanh bộ phận quét. Từ trường có thể được tạo ra
               bằng việc sử dụng các dòng điện hoặc các nam châm vĩnh cửu. Trong cả hai trường
               hợp, tại những điểm càng xa nguồn thì cường độ trường càng giảm xuống nhanh
               chóng, và do vậy không tạo ra từ trường đồng đều. Để khắc phục điều này, cần thiết
               phải thêm hoặc bít nam châm xung quanh bệnh nhân để có từ trường đồng nhất.
                       Bên cạnh độ lớn từ trường mà nam châm tạo ra một điều quan trọng không
               kém đó là độ chính xác của nó. Lực từ tại tâm của điểm tâm của nam châm cần phải
               đạt  tới  độ  hoàn  hảo  và  phải  đồng  nhất.  Sự  thăng  giáng  (sự  không  đồng  nhất  của
               cường độ từ trường ) trong vùng quét phải nhỏ hơn 3 phần triệu ( 3 ppm ). Có ba loại

               nam châm chính đã được sử dụng trong các máy cộng hưởng từ:
                                       1. Nam châm siêu dẫn
                                       2. Nam châm vĩnh cửu
                          3. Nam châm điện
                           + Nam châm vĩnh cửu (Hình 2.3): dạng nam châm cổ điển này tạo từ vật liệu
               sắt từ ( vd thép ), được sử dụng để cung cấp một từ trường tĩnh. Với nam châm vĩnh
               cửu, bệnh nhân được đặt trong khoảng giữa hai cực cố định của nam châm. Các nam
               châm điện có cấu hình tương tự, nhưng bề mặt cực được chế tạo bởi các vật liệu từ
               dẻo, là chất chỉ bị từ hóa khi có dòng điện bao quanh chúng. Các nam châm điện
               không cố định sử dụng một nguồn điện bên ngoài. Với cả hai loại nam châm đó, vùng
               từ được khép kín bởi các kẹp sắt mềm nối giữa hai điện cực. Khe hở giữa cặp bề mặt
               cực phải đủ lớn để chứa bệnh nhân cũng như các cuộn gradient và các cuộn RF. Thể
               tích nam châm cực lớn, trọng lượng có thể đạt tới 100 tấn, chỉ cần cài đặt một lần duy
               nhất và đòi hởi ít giá trị bảo quản. Nam châm vĩnh cửu chỉ có thể tạo ra một từ trường
               có độ lớn hữu hạn và không cần cung cấp nguồn và hệ thống làm lạnh (thường < 0,4
               T), độ ổn định cũng như độ chính xác hữu hạn. Thay đổi nhiệt độ là nguyên nhân dẫn
               tới thay đổi từ trường theo thời gian. Nếu bề mặt cực được chế tạo từ một vật liệu dẫn
               điện, các dòng xoáy cảm ứng trong bề mặt điện cực có thể hạn chế hiệu suất











                                                             106
   101   102   103   104   105   106   107   108   109   110   111