Page 71 - Kiểm nghiệm thuốc
P. 71
- Định lượng thường ít sử dụng. Nếu áp dụng có thể áp dụng các kỹ thuật định
lượng như trong quang phổ hấp thụ UV-VIS.
3.3. Phương pháp sắc ký lớp mỏng
3.3.1. Khái niệm về sắc ký
Năm 1903 nhà thực học người Nga M.S.Tsvet khi cho dịch chiết
clorophyl từ lá cây qua cột CaCO3, sau đó cho ether dầu hoả chảy qua thấy các sắc
tố của clorophyl được tách riêng thành những lớp màu khác nhau trên cột. Cột với
hệ thống các lớp màu đã tách được ông đặt tên là sắc đồ (hay sắc ký đồ) và kỹ thuật
tách này ông gọi là phương pháp sắc ký.
Ngày nay có thể nói sắc ký là phương pháp tách các chất dựa vào sự
phân bố khác nhau của chúng vào 2 pha không hoà lẫn vào nhau và luôn tiếp xúc
với nhau, một pha đứng yên gọi là pha tĩnh (Stationnary phase: SP) và một pha di
chuyển gọi là pha động (Mobile phase: MP). Trong quá trình pha động chuyển động
dọc theo hệ sắc ký hết lớp pha tĩnh này đến lớp pha tĩnh khác sẽ lặp đi lặp lại quá
trình hấp phụ và phản hấp phụ. Hệ quả là các chất bị hấp phụ nhiều (có ái lực lớn)
với pha tĩnh sẽ di chuyển chậm hơn các chất bị hấp phụ ít (có ái lực yếu) và chúng
có thể tách ra khỏi nhau.
3.3.2. Phân loại các phương pháp sắc ký
Trong phương pháp sắc ký, pha động có thể là lỏng hoặc khí, pha tĩnh có
thể là lỏng hoặc rắn.
Dựa vào trạng thái tập hợp của pha động người ta chia sắc ký thành 2 nhóm
lớn: sắc ký khí và sắc ký lỏng.
Dựa vào cơ chế trao đổi của các chất giữa pha động và pha tĩnh hoặc cách bố
trí pha tĩnh người ta lại chia các phương pháp sắc ký thành nhóm nhỏ hơn. Các dạng
sắc ký cơ bản được trình bày ở bảng 4.
Bảng 4. Các dạng sắc ký cơ bản
Dạng sắc kí Pha động Pha tĩnh Cách bố trí Cơ chế tách của
pha tĩnh các chất
Khí - Hấp phụ Khí Rắn Cột Hấp phụ
67