Page 110 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 110
Hình 4.11. Xoắn khuẩn T. pallidum dưới kính hiển vi nền đen
- Tính chất nuôi cấy
Cho đến nay chưa nuôi cấy được trên môi trường nhân tạo. Việc giữ
chủng giang mai do Nichols phân lập năm 1911 từ một bệnh nhân bị giang
mai liệt toàn thân, được thực hiện bằng cách cấy truyền liên tục trong tinh
hoàn thỏ.
- Sức đề kháng
Vi khuẩn giang mai rất nhạy cảm với điều kiện bên ngoài, nhất là khô
o
và nóng: ở nhiệt độ >50 C bị chết trong vòng 60 phút; ở nhiệt độ phòng chỉ
sống được vài giờ, do đó khó lây qua các dụng cụ bị nhiễm vi khuẩn; rất nhạy
cảm với hoá chất như arsenic, thuỷ ngân, bismuth, với pH thấp và kháng sinh.
3.1.2. Khả năng gây bệnh
Các nhiễm khuẩn tự nhiên xoắn khuẩn giang mai chỉ xảy ra ở người.
Các thực nghiệm trên thỏ hoặc khỉ, không gây thành bệnh giang mai.
- Bệnh giang mai mắc phải
Có thể lây qua niêm mạc mắt, miệng hoặc da bị sây sát hoặc dụng cụ bị
nhiễm nhưng những trường hợp này hiếm. Việc lây truyền chủ yếu là do tiếp
xúc trực tiếp qua đường sinh dục. Xoắn khuẩn vào cơ thể, gây bệnh và bệnh
được diễn biến qua 3 thời kỳ:
Giang mai thời kỳ 1 (primary syphilis): Từ 10-90 ngày sau khi nhiễm vi
khuẩn.
Bệnh tích chủ yếu là vết loét “săng” (chancre) ở bộ phận sinh dục; vết
loét không ngứa, không đau, loét nông và chân cứng. Kèm theo có hạch rắn ở
vùng lân cận. Trong dịch tiết của vết loét và dịch trong hạch có nhiều xoắn
khuẩn. Đây là thời kỳ lây lan mạnh. Có điều trị hay không thì vết loét cũng
khỏi và không để lại sẹo. Từ hạch bạch huyết, vi khuẩn vào máu.
Giang mai thời kỳ 2 (secondary syphilis): Từ 2- 12 tuần sau khi có
săng.
110