Page 61 - Chính trị
P. 61

  Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng 1932 -
                           1935
                          Sau giai đoạn 1930 – 1931, kẻ thù có âm mưu dập tắt phong trào cách
                       mạng Việt Nam, thẳng tay đàn áp; hàng nghìn chiến sỹ cộng sản, hàng vạn
                       quần chúng yêu nước bị bắt hoặc bị tù đầy. Đồng chí Trần Phú bị bắt chưa
                       kịp xét xử đã chết, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị bắt ngày 6/6/1931 tại Hồng
                       Kông  và được thả năm 1933;  Lý Tử Trọng, Ngô Gia Tự,  Nguyễn Đức
                       Cảnh...lần lượt bị xử tử.

                         Phong trào dân chủ giai đoạn 1936 - 1939

                         + Hoàn cảnh, sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng,
                   duy trì tổ chức quần chúng cách mạng, đến năm 1936, khi tình hình trong nước
                   và thế giới có sự biến chuyển mới, Đảng đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu độc
                   lập dân tộc và người cày có ruộng, chuyển hướng đấu tranh sang đòi dân sinh
                   dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ chức thích hợp, chuẩn bị lực lượng
                   cho cuộc đấu tranh giành chính quyền.

                         + Ý nghĩa, phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh
                   hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết
                   hợp các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp với các hình thức bất hợp pháp,
                   bí mật trong cuộc đấu tranh ở một nước thuộc địa. Qua phong trào, sự giác ngộ
                   chính trị của quần chúng được nâng cao.

                         Chủ trương đấu tranh từ 1939 – 1945 và tổng khởi nghĩa giành chính
                           quyền
                         Hoàn cảnh, Từ năm 1939, khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng
                   ta đã có những nhận định sáng suốt về tình hình thế giới và xu hướng phát triển
                   của cách mạng Đông Dương, xác định giải phóng dân tộc, đánh đuổi phátxít

                   Pháp, Nhật, giành độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của dân tộc Việt Nam. Từ
                   đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ
                   trang giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong
                   cuộc vận động giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ
                   lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng minh,
                   Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
                   1945.
                         Ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay  mặt Chính phủ lâm thời
                   đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập
                   nên nhà nước của dân, do dân và vì dân.

                         Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
                   Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
                   cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần
                   này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa
                   thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
                   chính quyền toàn quốc.

                         Giai đoạn đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng 1945 – 1946
   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66