Page 60 - Giáo trình môn học sức khỏe môi trường dịch tễ
P. 60
2.3. Mối liên quan giữa tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hiện mắc.
Khi cộng đồng có thêm (những) trường hợp mới xuất hiện một bệnh nào đó
thì cũng đồng nghĩa rằng cộng đồng đó có thêm (những) trường hợp mới “gia
nhập” vào nhóm có bệnh đó. Do đó, số người mới mắc của một bệnh càng tăng
thì kéo theo số người hiện mắc bệnh/ số người có bệnh đó cũng càng tăng. Như
vậy, tỷ lệ mới mắc của một bệnh nào đó tăng thì sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ hiện
mắc của bệnh đó và ngược lại.
Bên cạnh đó, tỷ lệ hiện mắc còn chịu tác động từ bệnh kì (thời gian biểu
hiện bệnh). Chẳng hạn, một bệnh có thời gian biểu hiện bệnh ngắn do bệnh cấp
tính, điều trị nhanh khỏi hoặc người bệnh tử vong sớm thì tỷ lệ hiện mắc của
bệnh thường thấp. Ngược lại, với những bệnh mạn tính, đặc biệt những bệnh mà
hiện chưa có kĩ thuật để điều trị khỏi hoàn toàn và người bệnh phải chung sống
với tình trạng bệnh tật cho đến cuối đời như tiểu đường, gout, tăng huyết áp…
số người mắc bệnh ngày càng tăng do cộng dồn những trường hợp hiện mắc với
những trường hợp mới mắc nên. Theo đó, tỷ lệ hiện mắc của những bệnh này
thường tăng cao
Như vậy, có thể nói tỷ lệ hiện mắc liên quan đến cả hiệu quả của các
chương trình/ hoạt động dự phòng bệnh tật cũng như hiệu quả của các chương
trình chẩn đoán điều trị bệnh.
Dưới đây là công thức thể hiện mối liên quan giữa tỷ lệ hiện mắc với tỷ lệ
mới mắc và bệnh kỳ.
Khi tỷ lệ hiện mắc < 10%: P = I x D
Khi tỷ lệ hiện mắc ≥ 10%: P =
+( )
Trong đó: P: tỷ lệ hiện mắc
I: tỷ lệ mới mắc
D: bệnh kỳ
Như vậy, để giảm tỷ lệ hiện mắc, chúng ta cần tìm cách giảm tỷ lệ mới mắc
bằng cách nâng cao chất lượng của các hoạt động/ chương trình phòng bệnh và/
hoặc chúng ta cần tìm cách kéo giảm bệnh kỳ thông qua việc đẩy mạnh các hoạt
động phát hiện sớm và điều trị kịp thời cũng như không ngừng nâng cao chất
lượng điều trị bệnh.
56