Page 42 - Giáo trình môn học sức khỏe môi trường dịch tễ
P. 42
Muỗi sống trong các vùng có bệnh dịch lưu hành, quá trình sinh sản của
muỗi phải qua môi trường nước. Muỗi đẻ trứng trong nước, trứng nở thành bọ
gậy, bọ gậy thành cung quăng và thành muỗi.
Biện pháp dự phòng là loại bỏ côn trùng truyền bệnh hoặc tránh không tiếp
xúc với chúng.
3.4.4. Các bệnh do thiếu nước tắm giặt:
Nhóm bệnh này gồm bệnh do Shigella, bệnh ngoài da, bệnh mắt hột, bệnh
viêm màng kết… Theo điều tra dịch tễ học, các bệnh ngoài da, bệnh về mắt có tỷ
mắc bệnh liên quan chặt chẽ với việc cung cấp và sử dụng nước sạch.
Nguyên nhân chủ yếu là do ký sinh trùng, các vi khuẩn, virus, nấm mốc gây
ra, nhưng thiếu nước sạch để vệ sinh cá nhân không kém phần quan trọng.
Biện pháp dự phòng là cải thiện việc cung cấp nước, vệ sinh môi trường và
giáo dục vệ sinh.
3.4.5. Bệnh do vi yếu tố và các chất khác trong nước:
Bệnh bướu cổ phát sinh ở những nơi mà trong đất, nước, thực phẩm quá
thiếu iod như vùng núi cao, vùng xa biển… khiến tuyến giáp phải làm việc
nhiều và làm cho bướu cổ to ra. Tuy vậy, bệnh bướu cổ còn do các yếu tố khác
như giới tính, địa dư, di truyền, khả năng kinh tế và xã hội.
Bệnh về răng do thiếu hoặc thừa flore. Flore cần thiết cho cơ thể để cấu tạo
men răng và tổ chức của răng. Tiêu chuẩn cho phép trong nước uống là 0,7 - 1,5
mg/lít, nếu nhỏ hơn 0,5 mg/lít sẽ bị bệnh sâu răng, nếu lớn hơn 1,5 mg/lít sẽ làm
hoen ố men răng và các bệnh về khớp.
Bệnh do nitrat cao trong nước. Nitrat là sản phẩm phân huỷ cuối cùng của
chất hữu cơ trong tự nhiên. Nitrat cao trong nước có thể do nước bị ô nhiễm
nước thải. Nếu sử dụng nước có hàm lượng nitrat cao quá giới hạn cho phép có
thể làm hàm lượng methemoglobin trong máu cao ở cả trẻ em và người lớn.
Hàm lượng nitrat trong nước trên 10 mg/lít có thể gây bệnh tím tái ở trẻ em.
38