Page 33 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 33
đặc điểm này là đặc biệt quan trọng trong phát hiện khối u và sự tái phát và di căn
ung thư.
Hình 1.17: Máy PET (bên trái) và Cyclotron (bên phải) để sản xuất các
ĐVPX có đời sống ngắn
Để khắc phục những hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định vị trí tổn
thương của PET, mô hình PET/CT đã ra đời từ năm 1992. PET/CT cung cấp
không những thông tin về sinh lý- chuyển hóa mà cả hình ảnh giải phẫu trên
cùng một hệ thống nên có thể xác định chính xác vị trí giải phẫu (do hình CT là
chủ yếu) các tổn thương chức năng (do xạ hình là chủ yếu).. Các nghiên cứu lâm
sàng cho thấy hình ảnh PET/CT có giá trị chẩn đoán chính xác hơn các thông tin
từ PET hay CT riêng rẽ.
Hình 1.18: Máy PET/CT
1.3. Các đồng vị phóng xạ phát Positron
Các đồng vị phóng xạ hay được sử dụng trong PET: đặc trưng là thời gian
11
bán hủy ngắn như carbon – 11 (T 1/2=20,40 phút) C, nitrogen – 13 (T 1/2=9,96
15
13
18
phút) N, oxygen – 15 (T 1/2=2,04 phút) O và fluorin – 18 (T 1/2=110 phút) F,
gallium 68 (T 1/2=68,10 phút); rubidium 82 (T 1/2=1,27 phút), các chất này đều
được tạo ra từ máy gia tốc vòng cyclotron không vận chuyển được vì thời gian
bán hủy rất ngắn. Nơi sản xuất chịu trách nhiệm về chất lượng của các DCPX đó,
không có cơ quan nào kiểm tra, cấp phép vì không đủ thời gian để làm các thủ
tục.
1.4. Các dược chất phóng xạ dùng trong ghi hình PET-PET/CT
Dược chất phóng xạ (DCPX) (hay còn gọi là thuốc phóng xạ) là những
hợp chất đánh dấu (HCĐD) hạt nhân phóng xạ được điều chế dưới dạng thuốc
uống, hít thở hoặc tiêm dùng trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Đồng vị phóng xạ sau khi đưa vào bệnh nhân, chúng sẽ liên kết với những
chất khác trong mạch máu của cơ thể, chẳng hạn glucose, nước, hoặc ammonia
mà không làm biến đổi hoạt tính sinh học của các hợp chất tự nhiên. Khi chúng
33