Page 31 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 31

BÀI 4
                                      GHI HÌNH BẰNG MÁY PET-PET/CT
                                               Thời gian: 3 giờ lý thuyết

               I. Mục tiêu của bài
               - Kiến thức:
               1. Phân tích được nguyên lý ghi hình cắt lớp bằng Positron.
               2. Trình bày được cấu tạo của máy PET-PET/CT.
               3. Trình bày được chỉ định, chống chỉ định trong ghi hình PET/CT.
               4. Nêu được các ứng dụng của phương pháp ghi hình bằng PET-PET/CT.
               II. Nội dung của bài
               Lịch sử
                     Nguyên lý của phương pháp cắt lớp phát và truyền xạ được David Kuhl và
               Roy Edwards nêu ra từ những năm cuối 1950s. Trong những năm 1970s, Tatsuo
               Ido ở Labo Brookhaven National là người đầu tiên mô tả và tổng hợp được 18F –
               FDG (phân tử mang đồng vị phóng xạ thường hay được sử dụng nhất trong PET).
               Hợp chất này được Abass Alavi sử dụng lần đầu tiên trên hai người tình nguyện
               vào tháng 8 năm 1976 tại trường Đại học tổng hợp Pennsylvania. Hình ảnh não
               thu được bằng phương pháp chụp cắt lớp nguyên tử thông thường (non – PET)
               biểu diễn nồng độ FDG trong tổ chức não. Sau đó chất này được trọng dụng trong
               positron tomographie scanners đầy sáng tạo, nhường chỗ cho những phương pháp
               hiện đại.
               1. Nguyên lý ghi hình cắt lớp bằng Positron
               1.1. Khái niệm về chụp cắt lớp bằng Positron
                     PET (Positron Emission Tomography) hay chụp xạ hình cắt lớp Positron là
               một kỹ thuật hình ảnh y tế 3 chiều (3-D ) bằng sự kết hợp của những kỹ thuật tái
               tạo hình ảnh tiết diện cắt ngang (chẳng hạn những kỹ thuật được sử dụng trong
               quét CT) với những dược chất phóng xạ để tạo ra hình ảnh. Đặc trưng kỹ thuật
               hình  ảnh  trùng  phùng  của  PET  là  việc  sử  dụng  các  chất  đánh  dấu  phát  xạ
               positron.
                     Đặc điểm chung của các kỹ thuật y học hạt nhân là sử dụng các chất đồng vị
               phóng xạ thích hợp (isotope) có hoặc không gắn với các chất mang (tracer), các
               chất này sẽ tập trung đặc hiệu tại các cơ quan cần khảo sát, việc ghi hình dựa trên
               việc đo độ tập trung hoạt độ phóng xạ tại các cơ quan đó qua hệ thống đầu dò đặt
               bên ngoài cơ thể.
                     PET/CT  là  kỹ  thuật  chụp  hình  kết  hợp  của  PET  và  CT.  Đây  là  kỹ  thuật
               chụp hình sử dụng các thuốc phóng xạ, cho phép khai thác tối ưu các lợi thế của
               PET là xác định hoạt tính của tổ chức kết hợp với các thông tin xác định vị trí,
               biến đổi cấu trúc của tổn thương trên hình ảnh CT.
               1.2. Nguyên lý ghi hình bằng Positron
                     Một Positron phát ra từ hạt nhân nguyên tử tồn tại rất ngắn, chỉ đi được một
               quãng đường cực ngắn rồi kết hợp với một điện tử tự do tích điện âm trong mô và
               ở vào một trạng thái kích thích gọi là positronium. Positronium tồn tại rất ngắn và
               gần như ngay lập tức chuyển hoá thành 2 photon có năng lượng 511 keV phát ra
               theo 2 chiều ngược nhau trên cùng một trục với điểm xuất phát. Người ta gọi đó
               là  hiện  tượng  huỷ  hạt  (annihilation).  Nếu  đặt  2  detector  đối  diện  nguồn  phát


                                                            31
   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35   36