Page 8 - Giáo trình môn học Siêu âm
P. 8
thuộc vào độ sâu tối đa cần chẩn đoán.
Tuy nhiên ngày nay dùng vật liệu tổng hợp các đầu dò không chỉ có một
tần số mà có thể có một dải từ 2-8 tần số trên một đầu dò. Về mặt công nghệ
việc này được thực hện như sau: người ta cắt gốm áp điện thành những phần
cực nhỏ có kích thước 100-200μm và sau đó lấp đầy vết cắt bằng vật liệu có
trở kháng âm cực thấp, bằng cách đó có thể giảm giá trị trở kháng âm cao của
gốm xuống gần tới mức trở kháng âm của nước.
6.2. Các loại đầu dò (transducer)
Đầu dò có 3 loại chính:
A B C
Hình 1.1: Các loại đầu dò: cong (A), phẳng (B), và quạt (C)
Đầu dò cong hoặc lồi (Curved or corvex array): được dùng phần lớn
trong siêu âm bụng với tần số từ 2.5 MHz (người béo phì) đến 5.0 MHz
(người gầy), trị số trung bình nằm trong khoảng 3.5 - 3.75 MHz. Kết hợp tính
chất của cả 2 loại đầu dò được đề cập phía trên, loại đầu dò này cho hình ảnh
rộng ở cả các khu vực gần lẫn xa và dễ cầm nắm hơn loại sector. Tuy nhiên,
mật độ các đường quét sẽ giảm xuống ở những vị trí xa đầu dò. Khi khảo sát
những cơ quan ở bụng trên, cần phải thao tác đầu dò cẩn thận để tránh bóng
cản của các xương sườn dưới.
Đầu dò phẳng (Linear array): sóng âm được phát ra song song với nhau
và hình ảnh tạo ra có hình chữ nhật. Chiều rộng của hình và số dòng quét là
hằng định ở tất cả các cấu trúc mô. Chúng thường sử dụng tần số cao (5.0 -
7.5 MHz). Lợi điểm của loại đầu dò này là cho hình ảnh ở gần có độ phân giải
cao giúp đánh giá mô mềm và tuyến giáp. Điểm bất lợi của đầu dò loại này là
mặt tiếp xúc rộng do đó sẽ cho xảo ảnh khi khảo sát ở những khu vực góc
8