Page 288 - Hóa phân tích
P. 288
các bậc khác nhau hay có thể đưa vào các thông số để tính toán ra kết quả từ mật độ
quang thu được.
2. Phương pháp sắc ký
2.1 Lý thuyết chung về sắc ký
Sắc ký là một kỹ thuật được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học. Nhà thực
vật người Nga Mikhail Tswett đã phát minh ra sắc ký vào năm 1906 khi dùng sắc
ký cột với chất nhồi calci carbonat để tách các sắc tố thực vật clorophyl và
xanthophyl. Chính nhà phát minh đã đặt tên cho kỹ thuật này là chromatography.
Tên này được ghép bởi hai từ Hy Lạp “chroma” có nghĩa là “màu” và graphein
nghĩa là “viết”. Trong mấy thập kỷ tiếp theo việc nghiên cứu về lý thuyết và ứng
dụng của sắc ký đã phát triển rất mạnh mẽ.
Năm 1952 A.J.P.Martin và R.L.M.Synge đã được tặng giải thưởng Nobel do
những phát minh của họ trong lĩnh vực sắc ký, đặc biệt là sắc ký khí. Tiếp theo
nhiều công trình nhằm hoàn thiện về kỹ thuật, về các loại cột dùng cho sắc ký.
Giữa những năm 1937-1972 đã có 12 giải thưởng Nobel cho những công trình khoa
học trong đó sắc ký là nội dung chủ yếu. Hiện nay các kỹ thuật sắc ký luôn có vai
trò quan trọng trong nghiên cứu lý thuyết cũng như ứng dụng của khoa học và công
nghệ.
Tất cả các loại hình sắc ký đều có nguyên lý tách giống nhau: mẫu phân tích
được hòa tan trong một pha động. Pha này có thể là một chất khí, chất lỏng hoặc
chất lỏng siêu tới hạn (supercritical fluid) được cho qua pha tĩnh một cách liên tục
và không hòa lẫn với nó. Pha tĩnh được cố định trong cột hay trên bề mặt chất rắn.
Các chất tan là thành phần của mẫu sẽ di chuyển qua cột theo pha động với tốc độ
khác nhau tùy thuộc vào tương tác giữa pha tĩnh – pha động và chất tan. Nhờ tốc
độ di chuyển khác nhau các thành phần của mẫu sẽ tách riêng biệt thành dải, làm cơ
sở cho phân tích định tính và định lượng.
2.1.1 Phân loại sắc ký
278