Page 123 - Giáo trình môn học lý thuyết X-Quang nâng cao
P. 123
Trong một số trường hợp đặc biệt có thể cứ chụp xong rồi mới rút sonde
3.2.1. Chụp bàng quang niệu quản trong khi tiểu
Các phim chụp ở tư thế chếch khu trú vào bàng quang niệu quản trong khi
bệnh nhân tiểu tiện.
Phương pháp này cho ta nhìn thấy rõ trào ngược niệu quản khi tiểu tiện. Để
kết hợp trong những trường hợp nghi ngờ có trào ngược người ta còn chụp bàng
quang niệu quản khi tiểu tiện vào thời điểm cuối cùng khi chụp UIV.
3.2.2. Chụp bàng quang muộn
Với những bệnh nhân tự chủ được, yêu cầu bệnh nhân nhịn tiểu sau khi
bơm thuốc vào bàng quang với một áp lực nhất định không đổi.
Khi bàng quang căng ta rút sonde ra.
Khoảng 3 giờ sau thì bắt đầu chụp và cứ 15 phút chụp một phim đến khi
niệu quản bể thận đầy thuốc cản quang
3.2.3. Chụp bàng quang đối quang kép
Kỹ thuật này hay dùng trong trường hợp nghi ngờ u bàng quang.
Sau khi chụp bình thường như trên. Một phần lớn thuốc được tháo ra qua
sonde, sau đó bơm tiếp khoảng 100 ml không khí rồi chụp ta sẽ có hình ảnh
bàng quang đối quang kép.
3.2.4. Chụp bàng quang hàng loạt
Kỹ thuật này nhằm nghiên cứu hoạt động của bàng quang (sự co bóp) và
theo dõi những đoạn cứng của thành bàng quang.
Sau khi chụp bàng quang như bình thường, ta để bệnh nhân nằm ngửa trên bàn.
Bàng quang được tháo thuốc 3 lần, sau mỗi lần tháo một phần thuốc ta chụp
một hình trên cùng một phim với hằng số giảm đi mỗi lần 1/3 tổng hằng số.
4. Chụp niệu đạo ngược dòng có kiểm tra qua soi (theo dõi qua màn tăng
sáng truyền hình)
Đưa sonde qua niệu đạo vào bàng quang, bơm đầy thuốc cản quang vào
trong lòng bàng quang (thuốc có nồng độ 30%)
Chụp một phim toàn thể, một phim khi tiểu tiện
Phương pháp này có thể xác định chính xác vị trí hẹp, túi thừa hoặc u niệu
123