Page 159 - Giáo trình môn học lý thuyết X-Quang chuẩn đoán
P. 159
Phương pháp này đòi hỏi phải chuẩn bị bệnh nhân chu đáo và bệnh
nhân phải có sự hợp tác tốt. Thụt vào khung đại tràng một lượng barit đặc đủ
để phủ niêm mạc đại tràng sau đó bơm hơi vào để làm cho lòng đại tràng nở
ra, thường chỉ cho barit đến góc lách hay giữa đại tràng ngang, nắn bụng hay
thay đổi tư thế bệnh nhân để barit đi tiếp đến manh tràng. Các phim chụp ở tư
thế khác nhau để bộc lộ được toàn bộ khung đại tràng. Kỹ thuật này có ưu
điểm là tìm được tổn thương sớm, polyp...
- Chụp đại tràng với thuốc cản quang tan trong nước: sử dụng cho các trường
hợp nghi ngờ hoặc có nguy cơ thủng đại tràng.
2. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU X QUANG ĐẠI TRÀNG BÌNH THƯỜNG
- Định khu: Trực tràng nằm ở tư thế thẳng đứng trong tiểu khung và
lượn theo chiều cong xương cùng, tiếp đến là đại tràng sigma với khẩu kính
hẹp hơn tạo nên một đường vòng có độ dài rất thay đổi. Đại tràng xuống được
cố định ở mạn sườn trái (đại tràng góc lách) tới góc đại tràng phải (đại tràng
góc gan), cuối cùng là đại tràng lên nằm trong rãnh thành, đại tràng phải và
tận cùng bằng manh tràng ở hố chậu phải.
- Các rãnh đại tràng ngang : mặt trong đại tràng có nhiều ngấn vòng
tròn nông sâu khác nhau, các ngấn này chia đại tràng thành nhiều đoạn hoặc
nhiều rãnh ngang. Trên phim các rãnh này biểu hiện bằng các hình nối tiếp
nhau khoảng 1cm, sâu 0,5cm. Đại tràng lên và đại tràng ngang có nhiều rãnh
hơn càng tới đại tràng sigma các rãnh ngang càng giảm.
- Hình đại tràng sau khi tháo thuốc hoặc sau khi đi ngoài: lòng xẹp
xuống, một lớp mỏng barit được giữ lại giữa các lớp niêm mạc tạo nên một
hình mạng lưới gồm các đường cản quang mảnh mai đan vào nhau.
- Hình đại tràng đối quang kép: bờ biểu hiện bằng một đường cản
quang liên tục, các mặt không cản quang và đồng nhất. Tất cả những bất
thường của bề mặt niêm mạc lồi lên hay lõm xuống đều được biểu hiện dưới
dạng vết hay đường viền cản quang.
159