Tên đề tài: Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP. Hà Nội năm 2019 – 2020.
ThS. Phạm Thị Mỹ Dung - BM Y tế công cộng
ThS. Đoàn Công Khanh - BM Y tế công cộng
TS. Nguyễn Thị Hiếu - BM Y tế công cộng
ThS. Hà Diệu Linh - BM Y tế công cộng
ThS. Nguyễn Khánh Chi - BM Y tế công cộng
Ngô Phương Thảo - CĐDS7A24
Phạm Thị Thảo Nguyên - CĐĐD12A14
TÓM TẮT
Mục tiêu: 1)Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP. Hà Nội năm 2019 – 2020; 2)Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân. Phương pháp: sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 384 người dân phường Thượng Thanh. Kết quả: >97% ĐTNC biết nên dùng thuốc theo hướng dẫn của BS; 28,6% có kiến thức yếu. 13%-33% thiếu tin tưởng vào lợi ích của sử dụng KS hợp lý; 2,3% có thái độ tốt. 95,6% tự ý sử dụng KS, hành vi sử dụng KS lần gần nhất có nhiều bất cập; chỉ 3,9% có thực hành tốt. Nữ giới, nhóm ≤40 tuổi, nhóm trình độ trên cấp 3 và viên chức/văn phòng có kiến thức, thái độ và thực hành tốt hơn so với nhóm so sánh; nhóm có kiến thức yếu và thái độ yếu có thực hành yếu cao gấp lần lượt 3,4 và 1,5 lần nhóm có kiến thức và thái độ không yếu (P<0,05).
SUMMARY
Knowledge, attitude, practice (KAP) and factors related to KAP of antibiotics among people living in Thuong Thanh ward, Long Bien district, Hanoi in 2019-2020.
Objective: 1) Assess the knowledge, attitude and practice of antibiotics among people in Thuong Thanh ward, Long Bien district, Hanoi in 2019 - 2020; 2) Explore some factors related to people's knowledge, attitude and practice of antibiotics. Method: a cross-sectional study was taken, 384 people in Thuong Thanh ward were interviewed. Results: > 97% of research respondents were aware that using antibiotics should be in accordance with the doctors’ advisory; 28.6% participants were marked as “limited knowledge”. 13% -33% interviewees had lack confidence in the benefits of proper use of antibiotics; 2.3% people were categorized as “good attitude” only. 95.6% respondents’ families used of antibiotics without doctors’ request; their last time of using antibiotics had many inadequacies; 3.9% participants were analyzed as “good practice”. Women, people at the age of 40 or under, people with vocational education or higher and those who are officers presented better knowledge, attitude and practice than those who are not in these groups; the groups with limited knowledge and attitude tended to performed inadequate practice 3.4 and 1.5 times higher than the opposite ones, respectively.
Sự ra đời của kháng sinh đã đánh dấu kỷ nguyên phát triển mới của y học trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nói riêng và trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nói chung. Sau khi được đưa vào sử dụng, kháng sinh đã giúp cho các quốc gia ứng phó hiệu quả hơn với các bệnh nhiễm khuẩn, từ đó làm thay đổi một cách căn bản cơ cấu bệnh tật và tử vong theo hướng giảm nhẹ gánh nặng mắc bệnh và tử vong do bệnh truyền nhiễm trên toàn cầu.
Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh không hợp lý, đặc biệt tình trạng lạm dụng kháng sinh đã xảy ra ở nhiều quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển. Điều này làm tăng chi phí điều trị, ảnh hưởng đến sức khỏe và trầm trọng hóa tình trạng kháng thuốc vốn đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và khó kiểm soát.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã chỉ ra tình trạng lạm dụng kháng sinh khá phổ biến ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt tình trạng người dân tự ý mua kháng sinh mà không có đơn.
Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội với vấn đề sử dụng kháng sinh không hợp lý và Kế hoạch hành động phòng chống kháng thuốc giai đoạn 2013 – 2020 của Bộ y tế đã đặt ra cho Ngành y tế địa phương nhu cầu cấp thiết giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại trên địa bàn phường chưa có nghiên cứu tìm hiểu về kiến thức, thái độ, thực hành sử dụng kháng sinh cũng như nhu cầu của người dân trên địa bàn liên quan đến vấn đề này. Do vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với các mục tiêu sau:
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Đại diện các hộ gia đình thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP. Hà Nội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
* Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích
* Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu:
Cỡ mẫu cho điều tra định lượng:
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả
p.q
n = Z2( 1 - a / 2 )
d 2
Trong đó: Z2( 1 - a / 2 ) : hệ số giới hạn tin cậy
(với a = 0,05 à Z( 1 - a / 2 = 1,96 )
q = 1 - p
d: sai số mong muốn (chọn d = 0,05)
Lấy giá trị p = 0.5 à Từ đó cỡ mẫu tính được là 384.
3.1. Kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân
Biểu đồ 3.1.1. Xếp loại kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng kháng sinh của người dân
Số liệu biểu đồ trên cho thấy kiến thức thái độ và thực hành sử dụn kháng sinh của người dân khá hạn chế. Tỷ lệ có kiến thức, thái độ và thực hành yếu tương đối cao (các tỷ lệ này lần lượt là 28,6%; 40,9% và 25,3%). Tỷ lệ có thái độ và thực hành tốt rất thấp (2,3% và 3,9%).
3.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng sinh của người dân
Bảng 3.2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về thuốc KS của ĐTNC
Đặc điểm
Kiến thức
OR (95%CI)
P
Yếu
n (%)
≥ Trung bình n (%)
Tuổi
≤ 40
37 (21,6)
134 (78,4)
0,53
(0,33-0,84)
0,007
> 40
73 (34,3)
140 (65,7)
Trình độ văn hóa
≤ Cấp 3
93 (36,5)
162 (63,5)
3,78
(2,14-6,69)
0,000
Trên cấp 3
17 (13,2)
112 (86,8)
Nghề nghiệp
Viên chức/văn phòng
16 (19,3)
67 (80,7)
(0,29-0,96)
0,039
Nghề khác
94 (31,2)
207 (68,8)
Nhóm từ 40 tuổi trở xuống có kiến thức tốt hơn so với nhóm trên 40 tuổi [OR = 0,53; (95%CI: 0,33-0,84); P<0,05]; nhóm có trình độ học vấn cấp 3 trở xuống có tỷ lệ kiến thức yếu cao gấp gần 4 lần tỷ lệ này của nhóm có trình độ trên cấp 3 [OR = 3,78 (95%CI: 2,14-6,69); P<0,05]. Tỷ lệ có kiến thức yếu của nhóm làm nghề viên chức/nhân viên văn phòng thấp bằng một nửa tỷ lệ này của nhóm nghề khác [OR = 0,53 (95%CI: 0,29-0,96); P<0,05].
Bảng 3.2.2. Một số yếu tố liên quan đến thái độ sử dụng KS của ĐTNC
Thái độ
121 (47,5)
134 (52,5)
2,33
(1,48-3,68)
> Cấp 3
36 (27,9)
93 (72,1)
18 (21,7)
65 (78,3)
0,32
(0,18-0,57)
139 (46,2)
162 (53,8)
Kết quả nghiên cứu cho thấy tương tự với kiến thức về KS, trình độ văn hóa và nghề nghiệp của người tham gia nghiên cứu có liên quan tới thái độ sử dụng kháng sinh của họ. Nhóm có trình độ cấp 3 trở xuống có thái độ yếu cao gấp 2,3 lần so với nhóm có trình độ trên cấp 3 [OR = 2,33 (95%CI: 1,48-3,68); P<0,05]; nhóm viên chức/nhân viên văn phòng có thái độ yếu chỉ xấp xỉ 1/3 nhóm nghề khác [OR = 0,32 (95%CI: 0,18-0,57); P<0,05].
Bảng 3.2.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành sử dụng KS của ĐTNC
Thực hành
66 (38,6)
105 (61,4)
0,61 (0,41-0,92)
0,023
108 (50,7)
105 (49,3)
129 (50,6)
126 (49,4)
1,91
(1,23-2,96)
0,005
45 (34,9)
84 (65,1)
Viên chức/ văn phòng
27 (32,5)
56 (67,5)
0,51
(0,30-0,84)
0,009
147 (48,8)
154 (51,2)
Kiến thức về kháng sinh
73 (66,4)
37 (33,6)
3,38
(2,12-5,38)
≥ Trung bình
101 (36,9)
173 (63,1)
Thái độ về kháng sinh
81 (51,6)
76 (48,4)
1,54
(1,02-2,31)
0,048
93 (41,0)
134 (59,0)
Số liệu bảng trên cho thấy, có mối liên quan giữa thực hành sử dụng kháng sinh với tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, kiến thức và thái độ KS. Những người từ 40 tuổi trở xuống có nguy cơ thực hành yếu thấp hơn gần ½ so với nhóm trên 40 [OR = 0,61 (95%CI: 0,41-0,92); P<0,05]. Tỷ lệ có thực hành sử dụng KS yếu ở nhóm có trình độ học vấn từ cấp 3 trở xuống cao gấp gần 2 lần so với nhóm có trình độ trên cấp 3 [OR = 1,91 (95%CI: 1,23-2,96); P<0,05]. Nhóm viên chức/nhân viên văn phòng cũng có tỷ lệ thực hành yếu thấp hơn so với nhóm nghề khác [OR = 0,51 (95%CI: 0,30-0,84); P<0,05].
Bên cạnh đó, nhóm có kiến thức yếu về KS có nguy cơ thực hành yếu cao gấp 3,4 lần so với nhóm có kiến thức từ trung bình trở lên [OR = 3,38 (95%CI: 2,12-5,38); P<0,05]. Tương tự, nhóm có thái độ yếu có nguy cơ thực hành yếu cao gấp 1,5 lần so với nhóm có thái độ ≥ trung bình [OR = 1,54 (95%CI: 1,02-2,31); P<0,05].
Kết luận:
Kiến nghị:
Tài liệu tham khảo:
XÁC NHẬN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG NGHIỆM THU ĐỀ TÀI NCKH